Suy thận mạn ở trẻ em

24-02-2010 08:15 | Đời sống
google news

Suy thận mạn (STM) ở trẻ em dễ dẫn đến suy thận giai đoạn cuối và chỉ có phương pháp điều trị thay thế thận là ghép thận và lọc máu mới giúp trẻ duy trì sự sống.

Suy thận mạn (STM) ở trẻ em dễ dẫn đến suy thận giai đoạn cuối và chỉ có phương pháp điều trị thay thế thận là ghép thận và lọc máu mới giúp trẻ duy trì sự sống. Hai phương pháp này tương đối tốn kém không phải gia đình nào cũng có thể điều trị cho con em mình. Tuy nhiên, nếu các bậc cha mẹ chú ý một số vấn đề trong chăm sóc sức khỏe cho trẻ sẽ giúp trẻ tránh được căn bệnh nguy hiểm này.

Viêm bể thận gây suy thận mạn ở trẻ em.
Các nguyên nhân dẫn đến STM ở trẻ em

 Viêm cầu thận dẫn đến STM ở trẻ em chiếm tỷ lệ cao nhất, trong đó đáng lưu ý là nguyên nhân viêm cầu thận liên quan đến nhiễm khuẩn (viêm cầu thận cấp). Bệnh thường gặp ở trẻ em sau viêm họng hoặc viêm da. Các nghiên cứu ở nước ta cho thấy có 5 - 10% bệnh nhi, bệnh tiếp tục tiến triển mạn tính và gây suy thận sau 10 năm bị viêm cầu thận cấp. Có 80% trẻ bị viêm cầu thận cấp xảy ra sau viêm họng hoặc viêm da do liên cầu khuẩn, số còn lại do các vi khuẩn khác. Độ tuổi thường gặp là 6-9, bệnh xảy ra quanh năm nhưng tập trung nhiều vào các tháng 9 - 12. Nghiên cứu sinh thiết thận ở trẻ viêm cầu thận cấp sau 10 - 15 năm cho thấy có tới 70% trường hợp có tổn thương xơ cứng cầu thận từng phần hoặc hoàn toàn, trong đó 30 - 40% có biểu hiện triệu chứng lâm sàng.

Viêm bể thận/viêm thận kẽ đứng hàng thứ hai, trong đó tắc nghẽn đường dẫn niệu chiếm 6,2%, thường do hẹp khúc nối bể thận - niệu quản bẩm sinh. Có thể phát hiện sớm bằng siêu âm thận và điều trị bằng phẫu thuật. Bệnh thận do trào ngược nước tiểu từ bàng quang lên niệu quản mỗi lần rặn tiểu chiếm 6,9%. Có thể phát hiện sớm bệnh này bởi triệu chứng trẻ thấy đau tức vùng hố thắt lưng mỗi lần rặn tiểu. Nếu trẻ có triệu chứng trên thì cần chụp bàng quang có bơm thuốc cản quang kết hợp rặn tiểu để xác định. Hình ảnh Xquang sẽ cho thấy nước tiểu trào ngược từ bàng quang lên niệu quản. Bệnh lý này là do khuyết tật ở van giữa niệu đạo và bàng quang, có thể điều trị phẫu thuật khuyết tật này.

Bệnh thận bẩm sinh gặp 16,2% số trẻ STM, trong đó bệnh thận nang chiếm 1,9% có thể phát hiện sớm bằng siêu âm thận. Hội chứng Alport chiếm 1,5%, đây là hội chứng bệnh lý có tính chất gia đình, bệnh biểu hiện bằng suy thận và 50% bệnh nhi có kèm theo điếc. Ngoài ra có thể gặp các bệnh thận bẩm sinh khác như Cystinosis, Oxalosis.

   Theo số liệu của Hội Lọc máu và ghép thận châu Âu (EDTA) thì tỷ lệ trẻ em STM thay đổi từ 1 trẻ / 1 triệu dân (ở Hy Lạp) đến 11 trẻ / 1 triệu dân (ở Israel). Ở nước ta chưa có số liệu STM ở trẻ em, nhưng tỷ lệ STM giai đoạn cuối chung cho cả trẻ em và người lớn là 0,06 - 0,08% dân số.

Các bệnh hệ thống gặp 7% số trẻ STM, trong đó viêm thành mạch dị ứng (Henoch - Schonlein - pupura) chiếm 2,4%. Bệnh biểu hiện bằng từng đợt xuất huyết dưới da thể chấm, chủ yếu ở hai chân, đối xứng, có thể kèm theo đau sưng các khớp, có protein niệu, có thể điều trị lui bệnh bằng các thuốc corticoid. Hội chứng tan máu - urê máu chiếm 3,1% biểu hiện bằng vàng da, bilirubin máu tăng, thiếu máu, urê máu tăng.

Hạn chế STM trẻ em bằng cách nào?

Khi đã bị STM thì bệnh sẽ tiến triển dần đến suy thận giai đoạn cuối. Lúc này để duy trì cuộc sống của bệnh nhân phải điều trị thay thế thận bằng lọc máu hoặc ghép thận, đây là các kỹ thuật cao hết sức tốn kém. Các phương pháp điều trị bảo tồn STM chỉ có vai trò kéo dài thời gian ổn định chức năng thận và làm chậm tiến triển của suy thận đến giai đoạn cuối. Vì vậy vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em như vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng, phòng và điều trị sớm các nhiễm khuẩn ở họng hoặc da và các nhiễm khuẩn khác, phát hiện sớm các bệnh thận bẩm sinh như hẹp khúc nối bể thận niệu quản, trào ngược nước tiểu bàng quang lên niệu đạo, bệnh thận đa nang để có biện pháp điều trị sớm, có thể làm giảm được tỉ lệ trẻ em bị STM.

PGS.TS.BS. Hà Hoàng Kiệm


Ý kiến của bạn