Suy giảm nhận thức nhẹ và hình ảnh học não

14-09-2021 11:00 | Y học 360
google news

Sàng lọc và chẩn đoán sớm suy giảm nhận thức nhẹ quan trọng vì nhiều lý do. Thứ nhất là phát hiện sớm sự suy giảm nhận thức có thể đưa ra biện pháp can thiệp trước khi tổn thương xảy ra thêm và nhiều trường hợp có thể trì hoãn hoặc thậm chí ngăn chặn sự tiến triển thành sa sút trí tuệ.

Thứ hai là cho phép bệnh nhân và gia đình có thêm thời gian để lên kế hoạch ứng phó với diễn tiến bệnh. Vì vậy nghiên cứu hình ảnh học não góp phần chẩn đoán sớm suy giảm nhận thức và dự đoán tiến triển thành sa sút trí tuệ.

Hình ảnh học cấu trúc não trên MRI, CT

Các nghiên cứu hình ảnh học ban đầu trong suy giảm nhận thức nhẹ (MCI) tập trung vào việc đánh giá vỏ não nội khứu (ERC) và hồi hải mã. Thể tích của ERC và hồi hải mã ở bệnh nhân MCI có xu hướng nhỏ hơn và ở mức trung bình giữa nhóm chứng bình thường và bệnh nhân AD, hoặc tương tự như AD. Một số nghiên cứu đã chứng minh độ nhạy cao hơn của vỏ não nội khứu so với thể tích hồi hải mã. Tỷ lệ teo hồi hải mã và vỏ não nội khứu mỗi năm đã được chứng minh là nổi bật hơn ở bệnh nhân MCI so với người bình thường.

Apostolova và cộng sự theo dõi một nhóm các đối tượng MCI về mặt lâm sàng và tâm thần kinh trong 3 năm. Họ phát hiện ra rằng thể tích hồi hải mã nhỏ hơn dự đoán diễn tiến MCI thành Alzheimer và những bệnh nhân mắc MCI diễn tiến thành Alzheimer sẽ bị teo lớn hơn ở CA1 và vùng của hải mã. Nguy cơ tiến triển thành sa sút trí tuệ có thể tương quan thể tích hồi hải mã. Những bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ có thể tích hổi hải mã nhỏ hơn hoặc bằng bách phân vị thứ 25 thì có nguy cơ tiến triển thành sa sút trí tuệ cao hơn 2 đến 3 lần so với những người có thể tích hồi hải mã lớn hơn hoặc bằng bách phân vị 75.

Nghiên cứu của Delano-Wood và cộng sự cho thấy rằng sự giảm tín hiệu chất trắng hải mã dự đoán trạng thái MCI. Bệnh nhân mắc chứng hay quên MCI có tín giảm tín hiệu chất trắng hải mã so với những người có MCI không mất trí nhớ.

photo-1631531874168

FDG-PET (chụp cắt lớp positron sử dụng chất phóng xạ FDG)

Những nghiên cứu trên FDG-PET cho thấy sự giảm đáng kể hoạt động của não ở một sốt vùng vỏ não (hệ viền, đồi thị trong, và hồi đai sau). Những phát hiện này phù hợp với những phát hiện trên MRI về cấu trúc.

FDG-PET nhạy hơn MRI trong chẩn đoán sa sút trí tuệ "sớm" tức MCI

photo-1631531875969

SPECT (chụp xạ hình cắt lớp bằng tia gamma)

Nghiên cứu trên SPECT báo cáo ghi nhận giảm lưu lượng máu não ở vỏ não thùy đính, vỏ não hồi đai sau và hồi trước chêm ở những người mắc suy giảm nhận thức nhẹ. Nghiên cứu trên SPECT theo chiều dọc cho thấy sự hiện diện của giảm tưới máu giống Alzheimer ở vùng vỏ hồi đai sau của bệnh nhân MCI là một dự báo tiến triễn thành Alzheimer.

Hình ảnh FDG-PET nhạy hơn SPECT trong phát hiện MCI, nhưng SPECT tiết kiệm chi phí hơn và sẵn có hơn FDG-PET.

photo-1631531877167

Picture 4

Amyloid-PET

Sự tích tụ amyloid-β (Aβ) dưới dạng các mảng amyloid là một dấu chứng bệnh học thần kinh của sa sút trí tuệ Alzheimer. Lắng đọng amyloid xuất hiện sớm ở bệnh nhân Alzheimer, có thể xảy ra trước khi biểu hiện triệu chứng lâm sàng 20 năm. Hình ảnh amyloid trở thành một trong những dấu chứng sinh học trung tâm của Alzheimer. Bằng chứng cho thấy rằng amyloid dương tính trên PET ở bệnh nhân MCI sẽ dự đoán tiến triền thành Alzheimer. Amyloid-PET có thể giúp phân biệt giữa các nguyên nhân khác nhau của rối loạn chức năng nhận thức và trong tương lai có thể giúp chọn lựa bệnh nhân thích hợp cho liệu pháp kháng amyloid.

Hiệp hội Alzheimer đã thiết lập các tiêu chuẩn để sử dụng Amyloid-PET phù hợp là những nhóm sau:

- Những bệnh nhân bị suy giảm nhận thức nhẹ (MCI) tiến triển không thể giải thích được hoặc dai dẳng

- Những bệnh nhân có thể mắc Alzheimer với triệu chứng lâm sàng không điển hình

- Nhng bệnh nhân bị sa sút trí tuệ tiến triển và khởi phát sớm.

Không nên dùng Amyloid PET trên những người không triệu chứng, sa sút trí tuệ điển hình hay chỉ để đánh giá độ nặng của suy giảm nhận thức.

photo-1631531878267

Hiện nay, MCI về cơ bản là một chn đoán lâm sàng, không thể dựa vào một kết quả cận lâm sàng đơn độc. Hình ảnh học và test chuyên sâu có thể tăng cường đánh giá lâm sàng và xác định chẩn đoán phân biệt giữa các loại sa sút trí tuệ. Nó giúp tiên lượng tốt hơn, tạo cơ hội để chuẩn bị cho gia đình và bệnh nhân. Những thay đổi về mặt giải phẫu và sinh lý của não có thể xuất hiện nhiều năm trước khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng có thể phát hiện được. Tuy nhiên các dấu ấn sinh học và hình ảnh học chuyên biệt không thể sử dụng để sàng lọc định kì vì chi phí cao, kĩ thuật chuyên sâu. Do đó đa phần dựa vào sự nhạy bén lâm sàng, đánh giá lâm sàng hàng loạt là cần thiến để ghi nhận sự suy giảm nhận thực và dự đoán tỉ lệ giảm trong nhóm các đối tượng cụ thể.

Ths.Bs Nguyễn Tường Vy, Bệnh viện Chợ Rẫy
Ý kiến của bạn