Quy luật của tuổi già là sự lão hóa. Bản thân sự lão hóa là một quá trình sinh lý và sinh học. Tuy nhiên, chính sự lão hóa là cơ sở tạo điều kiện cho bệnh tật phát sinh và phát triển. Đặc tính chung là sự lão hóa xuất hiện và diễn biến “không đồng thì, không đồng tốc và không đồng bộ”, do đó sẽ ảnh hưởng đến từng cơ quan, bộ máy, hệ thống trong cơ thể, đặc biệt là hệ thần kinh.
Tế bào não bình thường bị tế bào Alzheimer “xâm chiếm” khi về già. |
Biến đổi của hệ thần kinh do lão hóa
Trong khoảng đời người từ 20 - 90 tuổi, trọng lượng của não giảm 10 - 20% làm cho não bị teo dần, có thể thấy rõ nhất tại các vùng trán, đỉnh và thái dương. Khối lượng não bị giảm đi phản ánh số lượng tế bào thần kinh ngày càng ít và teo đi, có thể giảm tới 50% ở một số khu vực của não, đặc biệt ở vỏ não.
Theo mức độ già đi của cơ thể, các quá trình teo và loạn dưỡng trong các tế bào thần kinh ngày càng gia tăng. Sự thoái hóa của tế bào thần kinh có hiện tượng thoái biến các khớp thần kinh, nơi giữ vai trò quan trọng đối với các chất truyền dẫn thần kinh. Phần lớn tiền thân của các chất truyền dẫn thần kinh là các acid amin có nguồn gốc từ thức ăn cung cấp cho cơ thể.
Biểu hiện suy giảm chức năng thần kinh do lão hóa
Về giác quan:
Khứu giác: Ở người trên 80 tuổi, 75% thấy giảm khứu giác sinh lý không phải do tổn thương các nhánh thần kinh chi phối vùng niêm mạc mũi. Riêng trường hợp bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer hoặc bệnh Parkinson có thể thoái hóa tiến triển ở các tế bào hành khứu.
Thị giác thường bị giảm vì đục thủy tinh thể, thoái hóa điểm vàng hoặc bệnh glocom. Thông thường, thị lực NCT bị giảm với tỷ lệ 10 - 12%. 6% người dưới 65 tuổi bị thoái hóa điểm vàng và trên 80 tuổi tỷ lệ đó là 46%. Mặc khác, thị lực có khi bị giảm vì động tác liếc dọc và liếc ngang bị hạn chế.
Vị giác nói chung và khả năng phân biệt các vị cũng thường giảm đi khi tuổi đời tăng cao. Tuy nhiên, có khi rối loạn vị giác là biến chứng của suy thận, hoặc do thiếu vitamin (acid folic, vitamin B12) hoặc có thể do tác dụng thứ phát của một vài loại thuốc (ví dụ nifedipin...).
Thính lực: sau 65 tuổi, cứ 4 người có 1 người nghe kém.
Về hệ thực vật: 5 - 34% trường hợp có thể bị rối loạn tiểu tiện với các hình thái như tiểu khó, tiểu dắt, tiểu không hết bãi, tiểu tiện không tự chủ...
Về chu trình thức - ngủ: Nhiều NCT thường phàn nàn ít ngủ, thường hay tỉnh dậy khá sớm và giấc ngủ ban đêm hay bị gián đoạn với nhiều lần tỉnh giấc ngắn, có hoặc không kèm theo cảm giác muốn đi tiểu. Có rất nhiều nguyên nhân gây mất ngủ như: yếu tố môi trường, yếu tố tâm lý, bệnh tâm thần, nguyên nhân cơ thể (bệnh nội khoa), bệnh gây đau đớn, bệnh nguy kịch, nguyên nhân dược lý, rối loạn chất lượng giấc ngủ.
Về chức năng trí tuệ: Ở NCT, phần lớn hiếm gặp người có trí nhớ vượt quá trí nhớ của người trẻ tuổi hơn nhưng cũng có tới 5% trong quần thể người già có trí nhớ đặc biệt. Các chức năng trí tuệ có thể bị nhiễu loạn, nhất là trí nhớ, với nhiều biểu hiện khác nhau. Một số trường hợp rối loạn trí nhớ được người thân phát hiện nhưng rồi dễ bị bỏ qua với quan niệm không đúng gán cho tuổi già bình thường, không phải bệnh. Điều đáng chú ý là trí nhớ nói riêng, trí tuệ nói chung có liên quan mật thiết đến trình độ học vấn và điều kiện hoạt động gắn với tư duy của từng cá nhân.
Cách chăm sóc hệ thần kinh NCT
Khoảng 3/4 số NCT có ít nhất một bệnh mạn tính và ở người 80 tuổi có thể mắc bệnh đồng diễn. Do đó chăm sóc hệ thần kinh cho NCT không thể chỉ chú trọng riêng tới não mà còn phải quan tâm tới toàn bộ cơ thể. Mặc khác, không thể áp dụng một công thức nhất định nào cho mọi đối tượng NCT. Dưới đây là một số nguyên tắc chung:
Cần giải quyết các yếu tố nguy cơ đối với bệnh lý mạch máu não và điều trị các bệnh nội khoa đã được chẩn đoán.
Chú ý tới chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt, lao động, học tập, giải trí một cách đúng mức; kết hợp tập luyện với nghỉ ngơi, thư giãn; ngủ đều đặn 8 giờ mỗi đêm.
Sử dụng thuốc an toàn hợp lý.
Kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại.
Bảo đảm một môi trường gia đình ấm cúng, hòa hợp, yên vui để tạo điều kiện tâm lý thuận lợi nhất cho NCT.
GS.TS. Lê Đức Hinh (Chủ tịch Hội Thần kinh học)