Nếu vẫn ăn uống và hoạt động như bình thường, nhưng sao lại giảm cân? Vậy giảm cân đó là bình thường hay bất thường?
Thế nào là giảm cân?
Trọng lượng cơ thể được xác định bởi lượng calo của một người đưa vào, khả năng hấp thụ, tỷ lệ trao đổi chất, và tiêu hao năng lượng do vận động thể lực. Sụt cân có thể phản ánh do giảm lượng thức ăn, giảm sự hấp thụ thức ăn, tăng yêu cầu trao đổi chất, hoặc sự kết hợp của ba yếu tố trên. Về lý thuyết, khi bạn đưa năng lượng vào nhiều nhưng năng lượng tiêu hao (do vận động thể lực, do chuyển hóa cơ bản) thấp thì bạn sẽ có chiều hướng tăng cân. Nếu năng lượng đưa vào bằng năng lương tiêu hao thì sẽ đứng cân. Còn khi năng lượng đưa vào thấp hơn năng lượng tiêu hao thì bạn sẽ giảm cân.
Ý nghĩa lâm sàng giảm cân có thể được định nghĩa là mất khoảng 4,5 kg hoặc giảm 5% so với của trọng lượng cơ thể bình thường trong khoảng thời gian từ 6 - 12 tháng là bất thường. Trọng lượng mất mát này có thể là do chủ động hay không do chủ động. Do chủ động nghĩa là bạn cố ý giảm cân vì lý do thẩm mỹ hay do vì sức khỏe mà bạn thay đổi cách thức, chế độ ăn uống hoặc chế độ vận động… Giảm cân không do chủ động là dấu hiệu thường xuyên gặp phải, là dấu hiệu phổ biến hơn ở người lớn tuổi, và thường là dấu hiệu của một tình trạng bệnh lý nghiêm trọng hoặc rối loạn tâm thần. Do đó, giảm cân không chủ động nên cần được chú ý.
Những nguyên nhân phổ biến nào gây ra giảm cân không chủ động?
Giảm cân đi kèm tăng cảm giác ăn ngon miệng: cường giáp, đái tháo đường không kiểm soát, giảm hấp thu thức ăn, bướu tuyến thượng thận.
Giảm cân đi kèm mất cảm giác ăn ngon miệng: ung thư, bệnh nhiễm trùng mãn tính, bệnh nội tiết, bệnh tim mạch, bệnh phổi, bệnh thận giai đoạn cuối, bệnh lý tâm thần kinh, bệnh thần kinh, bệnh tổ chức liên kết, do thuốc…
Dấu hiệu sụt cân gợi ý bệnh?
Giảm cân với sự thèm ăn bình thường hoặc tăng:
- Cường giáp có thể hiện diện với cảm giác trong người nóng, ra mồ hôi, rụng tóc, đánh trống ngực, tăng sự thèm ăn, căng thẳng, mất ngủ, nuốt nghẹn mắt lồi, run tay, bướu cổ và vô kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt như thiểu kinh…
- Đái tháo đường: thường biểu hiện ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy nhiều và khát nước nhiều. Đó là những dấu hiệu thường dẫn bệnh nhân đến khám nhưng nhiều khi không đầy đủ các dấu hiệu như vậy.
- Kém hấp thu thường được thể hiện với giảm cân, tiêu chảy kéo dài với mùi phân hôi thối và kéo theo có sự liên quan đến giảm sự hấp thụ protein, chất béo, vitamin, và các chất điện giải.
- Bướu tuyến thượng thận: xuất hiện với cơn cao huyết áp kèm theo lo lắng, nhức đầu, cảm giác hồi hộp vùng tim, diaphoresis và xanh xao. Một số bệnh nhân (BN) có thể có dấu hiệu biểu hiện tăng chuyển hóa như: nóng, đổ mồ hôi, và giảm cân. Bướu tuyến thượng thận cũng có thể không có triệu chứng và phát hiện tình cờ.
Giảm cân với sự giảm cảm giác ngon miệng:
- Ung thư thường biểu hiện với triệu chứng không đặc hiệu như: mệt mỏi, giảm cân, ra mồ hôi ban đêm, sốt nhẹ và giảm sự thèm ăn. Nhiều dấu hiệu hoặc triệu chứng cụ thể sẽ phụ thuộc vào địa điểm chính của ung thư.
- Bệnh lý nhiễm trùng như: bệnh lao, bệnh nấm, nhiễm ký sinh trùng, và virút suy giảm miễn dịch của con người (nhiễm HIV) có thể gây ra tình trạng giảm cân, mệt mỏi, sốt, đổ mồ hôi ban đêm, đau khớp và giảm sự thèm ăn.
- Suy thượng thận: biểu hiện chán ăn, thờ ơ, giảm cân, buồn nôn, nôn mửa, yếu cơ và tiêu chảy như là kết quả của sự thiếu hụt cortisol. BN suy thượng thận tiên phát có thể có những biểu hiện của sự thiếu hụt aldosterone chẳng hạn như hạ huyết áp tư thế đứng, và có hiện thượng tăng sắc tố, đặc biệt ở vùng khuỷu tay, đầu gối, niêm mạc miệng, và vết sẹo sau phẫu thuật. Ở phụ nữ, mất androgen thượng thận dẫn đến giảm lông mu.
- Suy tim sung huyết: thường biểu hiện với mệt mỏi và khó thở lúc nghỉ ngơi hoặc gắng sức, đi kèm phù, tím tái, gan to và cổ trướng… Chính tình trạng sức khỏe kém nên thường là biểu hiện giảm cân và giảm sự thèm ăn.
- Bệnh phổi thường biểu hiện với khó thở lúc nghỉ ngơi hoặc gắng sức tối thiểu, ho và khạc đàm. BN có bệnh phổi thường xuyên thể hiện một cơ thể suy nhược, thở nhanh, thở khò khè, xanh tím, biến dạng lồng ngực, đầu ngón tay…
- Rối loạn tâm thần kinh luôn được xem xét khi không xác định một nguyên nhân thực thể nào đó là nguyên nhân gây ra việc giảm cân. Giảm trọng lượng và giảm đi sự thèm ăn được tìm thấy khoảng 70 - 80% BN trầm cảm có mức độ từ trung bình đến nặng.
- Chứng phụ thuộc thuốc và chất gây nghiện, đặc biệt là nghiện rượu, thuốc lá, opioid, cocaine, thuốc kích thích, thường dẫn đến chứng biếng ăn và giảm cân.
Các BS sẽ tìm hiểu nguyên nhân ra sao?
Các BS đánh giá với một bệnh sử toàn diện, thăm khám lâm sàng với sự quan tâm đặc biệt đến chế độ ăn uống và các yếu tố tâm lý xã hội. Điều quan trọng là xem xét sử dụng thuốc, vì có những loại thuốc có thể gây chán ăn. BN cũng sẽ được kiểm tra có liên quan đến chứng bệnh trầm cảm hay lo âu nào đó hay không? Các xét nghiệm hoặc cận lâm sàng khác thích hợp sẽ được BS chỉ định khi cần đánh giá sâu hơn hoặc để loại trừ dựa vào bệnh sử và những phát hiện trên lâm sàng.
- Một số xét nghiệm máu cơ bản có thể được thực hiện: như công thức máu đầy đủ để tìm nhiễm trùng, thiếu máu xét nghiệm sinh hóa để tìm bằng chứng của bệnh đái tháo đường, chứng tăng canxi huyết, rối loạn chức năng thận (ure, creatinine, BUN). SGOT, SGPT và bilirubin để đánh giá cho các rối loạn chức năng gan. Xét nghiệm bệnh lý tuyến giáp thông qua T3, T4, TSH… tốc độ lắng máu và CRP để tìm bệnh lý mô liên kết hoặc nhiễm trùng mãn tính, và xét nghiệm nước tiểu để tìm bằng chứng của nhiễm trùng, bệnh thận, hoặc mất nước.
- Hiện nay có xét nghiệm máu tìm dấu ấn ung thư cũng có thể hỗ trợ phần nào trong chẩn đoán và theo dõi.
- Xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân xét được chú ý để loại trừ các bệnh ác tính đường tiêu hóa.
- Chụp X-quang ngực có thể được xem xét để đánh giá khả năng ung thư phổi, bệnh phổi, suy tim sung huyết, bệnh lao và áp-xe phổi.
- Chứng kém hấp thu chất béo được đề xuất bởi xác định chất béo trong phân bằng nhuộm Sudan và khẳng định chất béo trong phân trong 72 giờ. Sinh thiết ruột non là một thử nghiệm có giá trị trong chẩn đoán phân biệt các rối loạn kém hấp thu.
- Ung thư đường tiêu hóa nên được đánh giá bằng nội soi đại tràng và nội soi dạ dày thực quản. Siêu âm bụng có thể được chỉ định để đánh giá gan, thận, tuyến tụy. Chẩn đoán hình ảnh bao gồm chụp CT, chụp cộng hưởng từ được sử dụng để chẩn đoán khối u rắn hoặc tổn thương di căn. X-quang thường được sử dụng để chẩn đoán bệnh di căn xương. Sinh thiết tủy xương phải được thực hiện khi một bệnh ác tính nghi ngờ.
- Suy tim sung huyết được xác nhận bởi đo điện tim, siêu âm tim.
- Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính được phát hiện bởi thử nghiệm chức năng phổi và khí máu động mạch.
- Việc đánh giá các bệnh mô liên kết bao gồm chụp X-quang, phân tích dịch khớp, xét nghiệm máu tìm yếu tố dạng thấp (nếu viêm khớp dạng thấp là nghi ngờ), các globulin miễn dịch huyết thanh, kháng thể kháng nhân và subtypes (nếu nghi ngờ lupus ban đỏ hệ thống).
BS. NGÔ HỮU LỘC