Sụp mi mắt, bệnh thành dị tật

24-12-2009 10:23 | Bệnh thường gặp
google news

Sụp mi là sự sa của mi mắt trên xuống thấp hơn vị trí bình thường. Nguyên nhân gây sụp mi mắt bao gồm tổn thương của dây thần kinh số 3 và hội chứng Horner;

Sụp mi là sự sa của mi mắt trên xuống thấp hơn vị trí bình thường. Nguyên nhân gây sụp mi mắt bao gồm tổn thương của dây thần kinh số 3 và hội chứng Horner; các nguyên nhân tại chỗ gồm tổn thương bẩm sinh hoặc mắc phải của các cơ nâng mi, khối u và nhiễm khuẩn hoặc do bệnh nhược cơ.

 Sụp mi mắt phải trong hội chứng Horner.
Những hình thái sụp mi thường gặp

Sụp mi được chia làm hai nhóm chính: sụp mi bẩm sinh và sụp mi mắc phải.

Sụp mi bẩm sinh: chiếm khoảng 55 - 75% các trường hợp, trong đó sụp mi đơn thuần thường gặp nhất, có thể kết hợp với tật khúc xạ, không gây nhược thị; Sụp mi bẩm sinh phối hợp với bất thường vận nhãn; Sụp mi bẩm sinh phối hợp với những dị dạng ở mặt.

Sụp mi mắc phải có thể xuất hiện lúc sinh và do đó có thể bị nhầm với sụp mi bẩm sinh. Sụp mi mắc phải chiếm khoảng 25% các trường hợp sụp mi và được chia làm 5 nhóm:

Sụp mi do tổn thương thần kinh, liệt vận nhãn với mức độ khác nhau, liệt thần kinh số III thường kèm theo liệt vận nhãn, thường mất cảm giác do tổn thương dây V; Hội chứng khe dơi, liệt các dây thần kinh số III, IV, V, VI cùng bên làm cho nhãn cầu bên tổn thương bất động nhìn thẳng, mi mắt sụp, giãn đồng tử, mất cảm giác, tê bì vùng dây V chi phối; Hội chứng đỉnh hố mắt: gồm hội  chứng khe dơi kèm theo tổn thương thị thần kinh; Hội chứng xoang hang: sụp mi, nhãn cầu đứng yên, đồng tử giãn, mất cảm giác mạc, tê bì trên vùng thuộc nhánh dây V, lồi mắt thẳng trục, không đẩy thụt nhãn cầu vào được, nghe ở vùng mắt và thái dương có tiếng thổi; Hội chứng cuống não: hội chứng Weber liệt dây thần kinh III cùng bên, liệt nửa người đối diện, hội chứng Benedick liệt dây thần kinh III cùng bên, run chân tay bên đối diện; Hội chứng Claude Bernard - Horner: sụp mi, co đồng tử, nhãn cầu thụt.

Sụp mi do cơ: nhược cơ hay gặp ở bệnh nhân nữ, trẻ tuổi, lúc đầu sụp mi một bên là dấu hiệu phát hiện bệnh. Tăng lên khi mệt mỏi, buổi chiều sụp nhiều hơn buổi sáng; rối loạn vận nhãn (song thị); Sụp mi hai bên với mức độ khác nhau nhưng thường nặng, liệt vận nhãn không toàn bộ, sụp mi hai bên, hở mi do tổn thương cơ vòng.

Sụp mi do cân: gặp ở người cao tuổi, chức năng cơ gần như bình thường, khi nhìn xuống mi sụp, nếp gấp da mi cao hơn bình thường, mi mỏng, sụp mi nặng hoặc nhẹ.

Sụp mi do chấn thương: chấn thương đụng dập hoặc đâm xuyên vào cân cơ cũng có thể gây sụp mi vĩnh viễn. Phẫu thuật hốc mắt và phẫu thuật thần kinh cũng có thể gây sụp mi.

Sụp mi do tác nhân cơ giới: u, sa da mi; bệnh lý sẹo như xơ hóa cơ, mắt hột, bỏng.

Các dấu hiệu chứng tỏ sụp mi nặng: lông mi hướng xuống dưới; mất nếp gấp mi trên; co rút cơ trán biểu thị bằng rướn lông mày; ngửa cổ ra sau; giảm thị lực; thử nghiệm lật mi, nếu mi trên luôn ở tư thế đã bị lật chứng tỏ cơ nâng mi yếu hay không còn hoạt động.

        Bệnh sụp mi mắt cần phân biệt với các trường hợp giả sụp mi là tình trạng mi mắt trông có vẻ thấp hơn bình thường, do các nguyên nhân: lõm mắt hoặc lồi mắt bên đối diện; thừa da mi trên quá mức; nhãn cầu nhỏ; không có nhãn cầu, teo nhãn cầu; Lác lên hoặc xuống đối bên; co rút mi trên ở một mắt có thể làm cho mắt bên kia có vẻ sụp; khuôn mặt không cân đối...

Các phương pháp điều trị sụp mi

Về tuổi điều trị: nên phẫu thuật khi trẻ 4 - 5 tuổi, lúc này trẻ đã có thể hợp tác để khám. Tuy nhiên, đối với các trường hợp sụp mi nặng, gây giảm thị lực do nhược thị hoặc lệch đầu thì cần phải mổ sớm hơn, có thể từ lúc 1 tuổi.

Sụp mi chủ yếu được điều trị bằng phẫu thuật. Tùy tình trạng để lựa chọn phương pháp thích hợp căn cứ vào mức độ chức năng của cơ nâng mi. Tuy có rất nhiều phương pháp phẫu thuật để điều trị sụp mi nhưng có thể xếp thành ba nhóm chính:

Phương pháp cắt một phần da mi phía trước: phương pháp này được thực hiện đầu tiên bởi những phẫu thuật viên người Ả rập, sau đó được Scarpa (1801) và các tác giả khác cải tiến và hoàn thiện, nhưng ngày nay ít được sử dụng.

Phương pháp cắt ngắn cơ nâng mi trên: được chỉ định khi mà sức cơ nâng mi trên còn ở mức trung bình hoặc tốt. Có thể thực hiện bằng đường từ phía sau qua kết mạc hoặc đường từ phía trước qua da.

Phương pháp dùng sự hỗ trợ của các cơ lân cận: phương pháp này được chỉ định khi mà sức cơ nâng mi trên yếu hoặc không còn. Sử dụng cơ thẳng trên để thay thế hoạt động của cơ nâng mi và áp dụng khi chức năng cơ thẳng trên còn tốt.

Treo mi trên vào cơ trán là phương pháp đơn giản, tương đối thông dụng. Trong phẫu thuật này, người ta dùng các chất liệu sinh học như cân đùi, vạt cơ trán... hoặc chất liệu tổng hợp như chỉ nilon, silicon... treo mi với cơ trán. Mi mắt sẽ mở ra khi bệnh nhân dùng cơ trán để kéo lông mày lên.

BS. Bùi Hữu Thịnh


Ý kiến của bạn