Bệnh nhân T.T.H (nữ, 46 tuổi) không có tiền sử bệnh lý vú, không dùng thuốc nội tiết, không có tiền sử bệnh lý nội ngoại khoa khác. Bệnh nhân vào viện vì sưng đau vú phải.
Trước đó, theo lời kể của bệnh nhân, tháng 3/2021, bệnh nhân tự sờ thấy khối u vú bên phải, không đau, không sưng, không nóng, đỏ. Khối u tiến triển kích thước to dần.
Tháng 7/2021, khối u xuất hiện sưng, đỏ, không chảy dịch mủ, đau nhiều đặc biệt khi sờ nắn, bệnh nhân tự sờ thấy hạch nách phải. Bệnh nhân không sốt, không gầy sút cân đi khám được điều trị kháng sinh, giảm đau nhiều đợt, tuy nhiên khối u không đáp ứng, tiếp tục tăng kích thước.
Do tình hình dịch COVID-19, bệnh nhân trì hoãn không đi khám và điều trị. Tháng 12/2021, bệnh nhân khám tại Bệnh viện Bạch Mai, bệnh nhân còn đau vú, không sốt, không sút cân, không đau đầu, không đau xương.
Sau đó bệnh nhân được sinh thiết tổn thương với kết quả giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập, type NST độ 2 và chuyển vào Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai để điều trị.
Qua thăm khám, các bác sĩ phát hiện nhiều hạch nách phải chắc kích thước 2 cm, di động kém. Vú phải có tình trạng da nề đỏ trên 1/3 vú, phù da, không loét vú, tụt núm vú, sờ nóng. Vú có 2 u, một u vị trí trung tâm kích thước 5 cm, chắc, dính da, không di động, một u vị trí ¼ dưới ngoài kích thước 2,5 cm, chắc, còn di động, không dính da. Không có nhân vệ tinh. Vú trái cân đối, không sờ thấy khối.
Các xét nghiệm cận lâm sàng công thức máu, sinh hóa máu, X-quang tuyến vú, cộng hưởng từ tuyến vú và kết quả giải phẫu bệnh chẩn đoán xác định bệnh nhân ung thư vú phải thể viêm cT4dN2aM0 (giai đoạn IIIB).
Theo PGS.TS Phạm Cẩm Phương - Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, BV Bạch Mai, bệnh nhân đến viện khi đã xuất hiện ung thư vú thể viêm đa ổ, di căn hạch nách, chưa di căn xa. Bệnh nhân được hội chẩn tiểu ban vú, tiến hành điều trị đa mô thức, trước tiên là điều trị hóa chất tân bổ trợ. Sau truyền 1 chu kì hóa chất, bệnh nhân ổn định và tiếp tục được theo dõi điều trị.
Ung thư vú thể viêm có tiên lượng xấu, nguy cơ tái phát cao
Các chuyên gia y tế nhấn mạnh, ung thư vú thể viêm là một dạng ung thư vú tiến triển nhanh, hiếm gặp với tỉ lệ 0,5-2% trong tổng số các trường hợp ung thư vú xâm lấn tại Mỹ. Theo Anderson (2005) độ tuổi mắc ung thư vú thể viêm cũng sớm hơn, với lứa tuổi thường gặp là 59 tuổi so với tuổi ung thư vú thường gặp là 66 tuổi.
Bệnh nhân ung thư vú thể viêm thường đến khám với khối u vú tiến triển nhanh, hoặc vú sưng đau không cải thiện sau điều trị kháng sinh.
Biểu hiện lâm sàng thường có: Vú sưng đỏ tối thiểu 1/3 vú, nóng, da phù, sần da cam, có hoặc không sờ thấy khối, thường tiến triển nhanh không quá 6 tháng kể từ khi khởi phát triệu chứng.
Chẩn đoán ung thư vú thể viêm dựa vào các đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh trên bệnh phẩm sinh thiết. Ung thư vú thể viêm có tiên lượng xấu, nguy cơ tái phát cao.
Nguyên tắc điều trị ung thư vú thể viêm chưa di căn xa tương tự ung thư vú giai đoạn tiến triển khác. Điều trị đa mô thức, bao gồm phối hợp hóa chất tân bổ trợ, phẫu thuật và xạ trị hậu phẫu.
Thống kê Globocan năm 2020, mỗi năm Việt Nam phát hiện 182.000 ca mới ung thư, trong đó ung thư vú là 21.555 ca. Tỉ lệ mắc ung thư vú ngày càng gia tăng và trẻ hóa tại nước ta. Các chuyên gia ung thư khuyến cáo, bên cạnh một lối sống tích cực và chế độ dinh dưỡng lành mạnh, việc tầm soát bệnh ung thư vú - đặc biệt ở phụ nữ từ 40 tuổi là vô cùng cần thiết...