Sự ra đời tình cờ của một số loại thuốc

28-07-2017 13:37 | Thông tin dược học
google news

SKĐS - Dân số thế giới tăng nhanh, đi kèm là tình trạng già hóa dân số cùng môi trường sống ngày càng ô nhiễm nặng chính là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự gia tăng nhu cầu về thuốc men trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Dân số thế giới tăng nhanh, đi kèm là tình trạng già hóa dân số cùng môi trường sống ngày càng ô nhiễm nặng chính là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự gia tăng nhu cầu về thuốc men trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Trên thực tế, việc phát minh ra một loại thuốc là cả một quá trình nghiên cứu với sự đóng góp công sức của nhiều nhà khoa học với chi phí lớn. Tuy nhiên, một số loại thuốc mang tính cách mạng trong điều trị bệnh lại được khám phá trong hoàn cảnh bất ngờ.

Thuốc trị ung thư bạch cầu

Chlorambucil là loại thuốc điều trị ung thư bạch cầu được FDA chấp thuận lần đầu tiên vào năm 1957. Ung thư bạch cầu là ung thư của các tế bào máu, đây là một trong những loại ung thư hàng đầu ở người dưới 15 tuổi. Loại thuốc này được bắt nguồn từ việc sử dụng khí mù tạc trong chiến trường của Thế chiến lần thứ nhất. Khí mù tạc lần đầu tiên được quân đội Đức sử dụng chống lại binh lính Anh gần Ypres vào năm 1917 và sau  này cũng chống lại quân đội Pháp. Khí mù tạc là một chất độc tế bào, tác nhân làm phồng da, hình thành mụn nước trên da khi tiếp xúc.Khi nghiên cứu để giảm thiểu tác hại của khí mù tạc, các nhà khoa học tại Đại học Yale đã phát hiện ra những người lính bị phơi nhiễm khí mù tạc có lượng bạch cầu thấp. Điều này dẫn tới phát hiện, các hợp chất nitơ có thể được sử dụng để giết chết các tế bào bạch cầu bị biến đổi, ngăn ngừa các khối u phân chia và di căn. Nghiên cứu đã tạo ra chlorambucil và đến ngày nay, loại thuốc này vẫn được sử dụng để điều trị ung thư bạch cầu.

Sự ra đời của viagra là bước tiến quan trọng trong lĩnh vực dược phẩm trị cương dương.

Sự ra đời của viagra là bước tiến quan trọng trong lĩnh vực dược phẩm trị cương dương.

Viagra trị rối loạn cương dương

Không nghi ngờ rằng viagra là một trong những khám phá về dược phẩm được sử dụng rộng rãi và đánh giá cao trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nguồn gốc của loại thuốc này thì ít người biết đến. Viagra ra đời ở Merthyr Tydfil - một thị trấn nhỏ ở xứ Welsh, Anh. Các nhà khoa học thử nghiệm một loại thuốc phòng ngừa những cơn đau thắt ngực, tuy nhiên, sau khi sử dụng, những người tham gia nghiên cứu cho biết nam giới thường xuyên cương dương. Nghiên cứu sâu hơn, các nhà khoa học phát hiện thuốc này thực sự giúp cải thiện chức năng sinh lý của nam giới và “viên thuốc màu xanh” đã được ra đời. Viagra được đưa ra thị trường lần đầu tiên vào năm 1998 với công dụng chữa trị rối loạn cương dương.Giờ đây, sau 20 năm, loại thuốc này đã trở thành một trong những thuốc được kê toa nhiều nhất trên thế giới.

Botox dùng trong phẫu thuật thẩm mỹ

Ngày nay, hầu như ai cũng biết đến botox trong ngành phẫu thuật thẩm mỹ giúp là phẳng các nếp nhăn trên da, giúp trẻ hóa khuôn mặt, nhưng ít ai biết rằng botox thực sự là một chất độc thần kinh được tạo ra một dạng tinh khiết của độc tố botulinum có thể gây ngộ độc. Lần đầu tiên botox được sử dụng như một loại thuốc ngăn ngừa co thắt cơ trong cơ thể, đặc biệt là với những người bị co thắt dây chằng hoặc ống nghe. Tuy nhiên, việc tiêm botox quanh mắt đem lại hiệu quả bất ngờ, giúp giảm các vết nhăn quanh vùng da mặt. Phát hiện ra công dụng này, các bác sĩ đã ứng dụng botox trong phẫu thuật thẩm mỹ giúp giảm nếp nhăn trên khuôn mặt và làm làn da căng mịn màng. Với công hiệu đặc biệt này, phẫu thuật thẩm mỹ bằng botox đã trở thành một phương pháp phổ biến nhất với hơn 7 triệu thủ thuật được thực hiện tại Mỹ vào năm 2016.

Tiêm chủng đậu mùa

Vào cuối thế kỷ 18, Edward Jenner đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển thuốc tiêm phòng bệnh đậu mùa - căn bệnh tàn phá khủng khiếp loài người trong nhiều thế kỷ trước, đặc biệt ở châu Âu. Sự khởi đầu của vắc-xin là ngày 14/5/1796, khi Edward Jenner tiêm chủng đậu mùa cho James Phipps - một bé trai 13 tuổi với loại virut đậu bò lây từ một phụ nữ trẻ bị lây nhiễm từ một con bò. Sau đó, James Phipps được coi là “an toàn” với đậu mùa. Ngay sau đó, vào năm 1798, Jenner dự đoán rằng sẽ dùng vắc-xin để đề phòng bệnh ở người. Khái niệm vắc-xin này được Louis Pasteur đưa ra khi ông mô tả lại phát minh của Jenner, vắc-xin sẽ miễn dịch với đậu mùa. Dự đoán của James đã trở thành hiện thực vào tháng 9/1979 khi WHO xác nhận đã chữa được bệnh đậu mùa nhờ phát minh từ 200 năm trước. Ngày nay, khoảng hơn 26 bệnh đã được dự phòng bằng vắc-xin.

Muối lithium trị rối loạn lưỡng cực

Việc điều trị rối loạn lưỡng cực (trước đây gọi là trầm cảm) đã thay đổi rất nhiều trong suốt lịch sử phát triển của ngành y học. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 20, bệnh nhân vẫn chưa có biện pháp điều trị hiệu quả.Vào năm 1948, nhà tâm lý học người Úc - TS. John Cade đã nghĩ ra phương pháp mang tính cách mạng bằng cách sử dụng muối lithium.Phát hiện này khởi nguồn từ thử nghiệm của ông về việc kết hợp giữa urea và mania. Thử nghiệm trên lợn cho thấy muối lithium làm con vật trở nên thư giãn và sau đó Cade đã tự mình thử nghiệm và cho kết quả tương tự. Phát hiện này của ông đã mở đường cho việc điều trị rối loạn lưỡng cực hiện nay.

Kháng sinh penicillin

Có nhiều người nói về việc khám phá ra penicillin của Alexander Fleming năm 1928 nhưng rất ít người biết đến câu chuyện của Ernst Chain và Howard Florey - những người đã phát triển penicillin thành một loại thuốc. Khoảng năm 1938, Howard Florey - Giáo sư Bệnh học ở Đại học Oxford và Ernst Chain - nhà nghiên cứu sinh hóa người Đức đã nghiên cứu thành công một xưởng sản xuất penicillin. Khoảng giữa tháng 3/1940, Chain đã chiết được 100mg penicillin ở dạng bột màu nâu, mạnh hơn nhiều so với chất nước ép của Fleming, đủ để tiến hành thí nghiệm trên động vật. Florey đã tiêm khuẩn cầu chuỗi cho 8 con chuột bạch với liều lượng đủ gây chết, trong đó 2 con được tiêm thêm 1 liều penicillin, 2 con được tiêm 5 liều nhỏ penicillin trong 10 giờ tiếp theo. Sáng hôm sau, 4 con chuột không được dùng penicillin đã chết trong khi những con kia vẫn còn sống. Cả 3 người này đều được giải Nobel y học năm 1945 cho những đóng góp của họ về penicillin.


Minh Huệ
Ý kiến của bạn