Hướng tới kỷ niệm 126 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2016), Nhà xuất bản QĐND vừa cho ra mắt một Trường ca với tiếng lòng thao thiết của nhà thơ, nhà báo, NSND Lê Huy Quang. “Bác Hồ và người chiến sĩ” - Những câu thơ khóc, những dòng thơ khóc của ngày ấy - bây giờ... “Tháng Năm/ Việt Nam/ Hương sen/ đong đưa/ Vàng tơ nắng mật/ Sinh nhật Bác/ Tám mươi tuổi tròn...”...
Ngày ấy, đã gần nửa thế kỷ rồi. Ngày ấy cả đất nước “băng tang cờ phố” khi nhận tin Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vĩnh biệt chúng ta đi vào cõi vĩnh hằng. Và kể kể từ ngày ấy, trong lòng của mỗi người dân Việt Nam vẫn khôn nguôi những xót thương tiếc nuối, vẫn đau đáu hướng về nơi bắt đầu của Tiếng nói Việt Nam...
Khi cảm xúc trào dâng, khi nỗi đau xé ruột, nhức nhối, không thể nào kìm nén được, Lê Huy Quang đã “Tôi/ khóc Người/ dòng - thơ - non”, bởi nhà thơ biết rằng: “thời gian chở chín tháng qua/ Người đã có/ hàng ngàn câu thơ khóc/ hàng ngàn bài thơ khóc/ hàng ngàn tiếng khóc thơ/ hàng ngàn nhà thơ khóc...”. Vậy nhưng, nhà thơ lại tự nhủ: “Bởi/ chín tháng ròng/ Người đã có/ Triệu con người/ chưa bao giờ làm thơ/ Hôm nay/ các màu da/ hòa thơ nước mắt/ khóc Người”. Đây phải chăng là cách người làm thơ khiêm tốn để hòa với nhân loại tiếng khóc thật thà? Tiếng khóc của tâm hồn, của nỗi đau không gì sánh nổi. Tiếng khóc của niềm tin vào một “tương lai đang dệt” cho dù trong nước mắt đó là “có mồ hôi/ pha máu/ phá gông xiềng”, nhưng nhân loại đã dệt tên Người “Vào-lăng-trái-đất/ bằng những dòng đẹp nhất” hôm nay.
Bắt đầu cho tiếng - khóc - thật của mình, Lê Huy Quang đã đem những lời gan ruột để vẽ lên một bức tranh về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ. Bởi khi nhà thơ trở về xứ Nghệ, những nhục hờn buồn khổ của cuộc sống lầm than, của cuộc đời nô lệ lại như xé tim gan. Thế nên, xứ Nghệ cũng như khắp Việt Nam “Đất cằn khô/ bốn mùa mưa lũ/ bạc nước sông Lam/ Rùng rùng gió bão...”. Một cách đặc tả khái quát về những khó khăn của một vùng quê - nơi đã sinh ra một - con - người - đẹp - nhất!
Điểm nhất của niềm tự hào mà Lê Huy Quang muốn bắt đầu là hai chữ “làng Sen”. Chỉ cần điều này thôi, chúng ta cũng có thể thấy rằng, dụng ý và lòng kiêu hãnh của nhà nhơ - người con xứ Nghệ là lớn lao đến thế nào. Viết về nơi Bác Hồ đã sinh ra cũng đồng nghĩa với việc nhà thơ đang viết về quê hương mình. Vì thế nên khi đọc từng câu, từng chữ, chúng ta luôn nhận ra những nét đặc trưng của một làng quê Việt Nam thuở ấy: “Ao quê/ nhàn nhạt/ nước đục/ tre quê” hay “Sông Lam chết mía/ đen bạc bãi bồi/ đò ai xuôi ngược ai ơi...”. Những đặc trưng này cũng đồng hành với những đau thương, những đau thương mà người dân Việt Nam thuở ấy phải gánh chịu bởi gót giày của quân xâm lược: “Dân làng ta chịu thương chịu khó/ Sao người làng ta nghèo cực quá! Rau cháo/ qua ngày/ cầu thực/ tha phương/ vùi xác nơi xa”. Câu thơ như muốn xé lòng về cuộc sống cơ cực lầm than của nhân dân Việt Nam ngày ấy. Những ai hôm nay chưa từng biết chiến tranh, chưa hiểu về chiến tranh thì chỉ cần đọc những câu thơ này thôi cũng phần nào thấy căng tức nơi lồng ngực, phải rưng rưng nơi khóe mắt. Câu thơ như lục lại tất cả những đớn đau, như dựng lại một quá khứ bi thương của cảnh đời nô lệ xa xưa.
Khi đã liệt kê xong những thăng trầm về cuộc đời của Bác, những lầm than gian khổ của nhân dân, của dân tộc Việt Nam, nhà thơ lại quay về với những đớn đau, với những xót xa vòi vọi khi tưởng nhớ đến Người: “Buổi sáng mất Bác Hồ/ tôi gội mưa/ dọc đê sông Hồng/ dòng dòng nước mắt...”. Rồi: “Cả nước khóc Người/ mang cây lá kết màu xanh/ tất cả bốn mùa hoa/ dịu ngọt thơm lành/ dân quanh Bác/ trong niềm đau bật máu...”. Và “Đất/ Trời/ rung/ khóc Người dữ dội...”. Những câu thơ đau đớn đến tột cùng, làm nhói đau, làm tim ta bật máu. Nhà thơ khóc Bác, cả dân tộc khóc Bác, cả nhân loại khóc Bác, cả đất trời khóc Bác... bằng nỗi đớn đau không gì tả được mà tác giả đã làm người đọc hôm nay như trở về với những phút giây não nề đau thương ấy thuở nào.
Tôi không dám cho mình cái quyền đánh giá về thơ, nhưng với cảm quan, cảm nghĩ của mình thì tôi thực sự coi đây là câu thơ hay nhất tôi từng gặp. Lê Huy Quang với “dòng dòng nước mắt” khi trong lòng quặn thắt nỗi đau chung... Rồi đến khi: “Gió truyền đưa tin/ Mọi vật nghiêng mình/ Mỗi người gặp nhau/không nói - ghìm mắt lại/ nghe tim mình nhức nhối...”. Có lẽ đúng rồi! Đến lúc này, nước mắt đâu còn để có thể thành dòng? Chỉ còn lại nước mắt chảy trong tim. Chỉ còn lại những giọt nước mắt chảy ngược vào lòng. Chỉ còn lại con tim đang nhức nhối...
Và rồi Lê Huy Quang đã nhanh chóng quay về thực tại, để tự an ủi mình bằng niềm tin, bằng sự tôn kính, ước mong: “Hồ Chí Minh/ Người ở lại/ trong ca dao/ cuộc đời/ dòng sông/ cây rừng/ ngọn núi.../ trong thơ Việt Nam/ và thơ nhân loại...”. Những câu thơ vừa như mong ước, vừa như sự khẳng định không thể nào thay đổi, bởi tôi biết, Lê Huy Quang cũng như bao người đã nhìn thấy rất rõ điều đó không chỉ hôm nay mà mãi mãi mai sau.
Bác Hồ và người chiến sĩ, càng đọc ta càng thấy thấm thía biết bao nhiêu. Một trường ca không dày, không dài dòng cũng không quá phô trương, nhưng với tôi nó là sự hội tụ tất cả những gì tinh túy nhất của Lê Huy Quang. Một mạch thơ đượm buồn, đau xót, xé tim gan nhưng lại liệt kê tất cả những gì cao đẹp nhất, những giá trị lịch sử đẹp nhất, sáng ngời nhất của Bác Hồ, của dân tộc Việt Nam. Tập trường ca không chỉ đơn thuần là lời của thi nhân “khóc Bác”, mà nó còn là giá trị của tâm hồn, của tấm lòng thi sĩ, giá trị của lịch sử hào hùng, giá trị của lòng tự tôn, của niềm kiêu hãnh, của tự hào dân tộc Việt Nam ta. Nó thật sự là niềm đau không bao giờ dứt, là kho tàng tư liệu về cuộc đời Bác Hồ, về những thăng trầm lịch sử của dân tộc Việt Nam.