Natri bicarbonat là thuốc chống acid (dùng làm thuốc kháng acid dạ dày) và thuốc kiềm hóa nước tiểu trong nhiễm toan chuyển hóa. Thuốc có dạng tiêm và uống, nhưng dạng uống được sử dụng nhiều hơn, đặc biệt trong cộng đồng, trong điều trị ngoại trú. Dạng tiêm tĩnh mạch hiện nay thường chỉ dành cho người bệnh bị nhiễm acid nặng và sử dụng tại các cơ sở y tế.
Dạng uống có viên nén, gói bột pha nước uống và viên phối hợp (có natri bicarbonat và các thuốc chống acid khác như nhôm hydroxid, magnesi carbonat, magnesi trisilicat, bismut subnitrat).
Cần nhai nhẹ trước khi nuốt và uống sau khi ăn.
Để làm giảm độ acid ở dạ dày, hiện nay natri bicarbonat thường không dùng đơn độc mà dùng viên phối hợp. Sau khi uống, natri bicarbonat có tác dụng trung hoà nhanh độ acid của dạ dày và hấp thu tốt nên làm giảm đau nhanh chóng.
Không dùng thuốc uống này trong các trường hợp viêm loét đại, trực tràng, bệnh Crohn, hội chứng tắc, bán tắc ruột, hội chứng đau bụng chưa rõ nguyên nhân.
Tránh dùng lâu dài với liều cao hơn liều khuyến cáo ở người bệnh mở thông đại tràng. Không dùng thuốc cho người bệnh có chức năng thận kém hoặc người bệnh đang thẩm tách (vì có thể gây ra tăng hàm lượng nhôm và/hoặc hàm lượng magnesi trong máu).
Đối với người mang thai vì chưa xác định được tính an toàn cho đối tượng này nên không dùng cho người mang thai, trừ khi thầy thuốc đã cân nhắc kỹ về lợi ích so với nguy cơ và không có biện pháp nào khác thay thế.
Dùng quá nhiều natri bicarbonat có thể gây nhiễm kiềm chuyển hóa, phù. Khi dùng uống, tác dụng có hại chủ yếu là ở đường tiêu hóa. Ðã thấy thuốc gây tiêu chảy nhẹ (nhưng rất hiếm). Tuy nhiên, cần đặc biệt lưu ý đến khả năng gây giảm kali huyết và tăng natri huyết khi dùng thuốc.
Natri bicarbonat là thuốc chống acid trực tiếp và khá mạnh, vì vậy cần tránh dùng liều cao và kéo dài. Cần nhai nhẹ viên thuốc trước khi nuốt và uống sau khi ăn (đối với điều trị kháng acid). Để kiềm hóa nước tiểu uống chia thành nhiều liều cùng với nhiều nước (liều lượng do bác sĩ chỉ định).
DS. Hoàng Thu