Sử dụng nhóm thuốc chống co giật và chỉnh khí sắc ở phụ nữ mang thai

11-01-2017 14:05 | An toàn dùng thuốc
google news

SKĐS - Khi bị bệnh tâm thần, nhiều phụ nữ vẫn muốn sinh con hoặc mang thai ngoài ý muốn. Tuy nhiên, việc dùng thuốc để điều trị rối loạn tâm thần sẽ ảnh hưởng đến thai nhi. Vì vậy, khi sử dụng thuốc cần phải thảo luận với bác sĩ chuyên khoa tâm thần đang theo dõi và điều trị cho mình.

Dưới đây là một số kiến thức cơ bản về việc sử dụng nhóm thuốc chống co giật và chỉnh khí sắc ở phụ nữ mang thai.

Nhóm thuốc chỉnh khí sắc

Lithium: Nhóm D

Sử dụng lithium trong ba tháng đầu thai kỳ có liên quan đến khuyết tật bẩm sinh, đặc biệt là các khuyết tật tim như bất thường kiểu Ebstein. Độc tính của lithium (chẳng hạn như chứng xanh tím, giảm trương lực cơ, rung tâm nhĩ và nhịp tim chậm) đã được báo cáo ở trẻ sơ sinh có mẹ uống lithium trong khi mang thai. Lithium chỉ nên được đưa ra trong thời kỳ mang thai khi không có lựa chọn thay thế và lợi ích lớn hơn nguy cơ.

Nhóm thuốc chống co giật - chỉnh khí sắc

Divalproex: Nhóm D

Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy bằng chứng về độc tính trên bào thai ở giai đoạn phôi (embryofetotoxicity): Tiếp xúc với valproate trong tử cung làm tăng nguy cơ khuyết tật ống thần kinh và các bất thường cấu trúc khác. Nguy cơ nứt đốt sống sau khi tiếp xúc với valproate trong tử cung là khoảng 1-2%.

Divalproex không được khuyến cáo sử dụng trong khi mang thai. Nếu divalproex được sử dụng trong khi mang thai, hoặc nếu bệnh nhân có thai trong khi đang sử dụng divalproex, bệnh nhân cần được thông báo về những mối nguy hiểm tiềm tàng đối với thai nhi.

Carbamazepine: Nhóm D

Một nghiên cứu bệnh chứng trên 210 phụ nữ được điều trị bằng carbamazepin ít nhất là trong ba tháng đầu của thai kỳ đã cho thấy một sự gia tăng gấp đôi về tỷ lệ dị tật bẩm sinh lớn. Kết quả là 12/160 trong nhóm carbamazepine so với 18/560 trong nhóm chứng. Ngoài ra còn có sự giảm cân nặng khoảng 250g ở trẻ sơ sinh có mẹ sử dụng carbamazepine.

Carbamazepine có thể gây hại thai nhi khi dùng cho phụ nữ mang thai. Dữ liệu dịch tễ học cho thấy có thể có mối liên quan giữa việc sử dụng carbamazepine trong khi mang thai và dị tật bẩm sinh, bao gồm tật nứt đốt sống.

Nếu thuốc này được sử dụng trong khi mang thai, hoặc nếu bệnh nhân có thai trong khi dùng thuốc này, bệnh nhân cần được thông báo về những mối nguy hiểm tiềm tàng đối với thai nhi. Sử dụng các phương cách được chấp nhận hiện nay và kiểm tra thường xuyên để phát hiện các khuyết tật nên được coi là một phần của chăm sóc trước khi sinh trên phụ nữ mang thai có sử dụng carbamazepine.

Phenobarbital: Nhóm D

Trẻ sơ sinh có tiếp xúc với phenobarbital trong tử cung đã được báo cáo có tiềm năng có tác hại lâu dài đối với khả năng nhận thức.

Tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh có liên quan đến việc sử dụng các nhóm thuốc chống co giật (kể cả phenobarbital) trong khi mang thai. Phenobarbital chỉ nên được đưa ra trong thời gian mang thai khi không có lựa chọn thay thế và lợi ích cao hơn nguy cơ.

Phenytoin: Nhóm D

Đặc điểm của hội chứng thai nhi - hydantoin bao gồm bất thường sọ mặt và đầu chi. Khuôn mặt điển hình bao gồm một mũi rộng, thóp rộng, nếp gấp mi mắt, mũi hếch ngắn, bất thường ở mắt, đôi tai đặt thấp và nhô cao, miệng rộng, hở môi hoặc vòm miệng, đôi môi nhô cao, khác biệt trong kích thước và hình dạng của đầu.

Phenytoin chỉ nên được đưa ra trong thời gian mang thai khi không có lựa chọn khác thay thế và lợi ích cao hơn nguy cơ.

Levetiracetam: Nhóm C

Levetiracetam chỉ nên sử dụng trong thời kỳ mang thai khi lợi ích tiềm năng biện minh cho những nguy cơ tiềm ẩn cho thai nhi.

Lamotrigine: Nhóm C

Phụ nữ cần được tư vấn để thông báo cho bác sĩ của mình nếu họ có kế hoạch bắt đầu hoặc ngừng sử dụng thuốc tránh thai hay các chế phẩm nội tiết tố nữ khác. Những thay đổi sinh lý trong khi mang thai có thể ảnh hưởng đến nồng độ lamotrigine và/hoặc hiệu quả điều trị. Nồng độ lamotrigine giảm trong khi mang thai và phục hồi sau khi sinh đã được báo cáo. Điều chỉnh liều lượng là cần thiết để duy trì đáp ứng lâm sàng.

Lamotrigine chỉ nên được đưa ra trong thời gian mang thai khi không có lựa chọn thay thế và lợi ích cao hơn nguy cơ.

Gabapentin: Nhóm C

Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy bằng chứng về độc tính trên bào thai liên quan đến chậm hóa xương ở một số xương: sọ, cột sống, hai chân trước và chân sau. Niệu quản và thận bị ứ nước trong các nghiên cứu trên động vật cũng đã được báo cáo. Không có số liệu đối chứng trong thời kỳ mang thai của người.

Gabapentin chỉ nên được đưa ra trong thời kỳ mang thai khi lợi ích giá trị hơn nguy cơ.

Oxcarbazepine: Nhóm C

Một nghiên cứu đã báo cáo rằng oxcarbazepine được chuyển hóa thành dẫn chất 10-hydroxy, chất chuyển hóa này của oxcarbazepine có ảnh hưởng trong chừng mực nào đó đến sự trao đổi chất của nhau thai người trong ống nghiệm và trong cơ thể.

Oxcarbazepine chỉ nên được đưa ra trong thời gian mang thai khi lợi ích lớn hơn nguy cơ.

Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã đưa ra bảng xếp hạng 6 nhóm và 5 mức độ để chỉ ra tiềm năng của một loại thuốc gây ra dị tật bẩm sinh và các ảnh hưởng trên thai nhi nếu được sử dụng trong thời kỳ mang thai.

Nhóm A: Nghiên cứu đầy đủ và có đối chứng đã không chứng minh được một nguy cơ đối với thai nhi trong ba tháng đầu của thai kỳ và không có bằng chứng về nguy cơ trong các tháng tiếp theo của thai kỳ

Nhóm B: Nghiên cứu trên động vật đã không chứng minh được một nguy cơ cho bào thai và không có nghiên cứu đầy đủ và có đối chứng ở phụ nữ mang thai.

Nhóm C:Nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra ảnh hưởng xấu đến bào thai và không có nghiên cứu đầy đủ và có đối chứng ở người, nhưng lợi ích tiềm năng có thể bảo đảm sử dụng thuốc ở phụ nữ mang thai bất chấp những rủi ro tiềm tàng.

Nhóm D: Có bằng chứng rõ rệt về nguy cơ trên thai nhi dựa trên dữ liệu điều tra phản ứng bất lợi từ nghiên cứu hoặc kinh nghiệm sau khi thuốc ra thị trường hoặc các nghiên cứu ở người, nhưng lợi ích tiềm năng có thể bảo đảm sử dụng thuốc ở phụ nữ mang thai mặc dù có những rủi ro tiềm tàng.

Nhóm X: Các nghiên cứu trên động vật hoặc con người đã chứng minh bất thường ở bào thai và/hoặc là có những bằng chứng rõ rệt về nguy cơ trên trên thai nhi ở người dựa trên dữ liệu phản ứng bất lợi từ nghiên cứu hoặc kinh nghiệm sau khi thuốc được đưa ra thị trường, và những rủi ro liên quan đến sử dụng thuốc ở phụ nữ mang thai rõ ràng lớn hơn lợi ích tiềm năng.

Nhóm N: FDA không phân loại thuốc, do không có đủ dữ liệu hoặc các dữ liệu mâu thuẫn và trái ngược với nhau (các thuốc thuộc nhóm này chưa thể được coi là an toàn)

Như vậy, với bảng xếp hạng này, nhóm X là tuyệt đối không được sử dụng và trong nhóm này có 1 chất rất nổi tiếng là thalidomide. Nhóm A và B được coi là an toàn nhưng hầu như có rất ít thuốc thuộc 2 nhóm này, kể cả thuốc của các chuyên khoa khác.


BS. CKII Huỳnh Thanh Hiển - BS. Cao Tiến Đức
Ý kiến của bạn