Sự cố y khoa – Nỗi đau của người bệnh và thầy thuốc

01-07-2017 09:40 | Tin nóng y tế
google news

SKĐS - Thời gian vừa qua sự cố y khoa ở Hoà Bình không những là sự mát mát lớn đối với gia đình 8 nạn nhân mà còn thu hút sự chú ý lớn đối với tất cả đội ngũ thầy thuốc, với dư luận xã hội. Những kết luận và kỷ luật đã được ra với các cá nhân và tập thể, thậm chí sắp tới đây sẽ có những án phạt nặng nề hơn. Nguyên nhân trực tiếp của sự việc cũng đã và đang được hội đồng chuyên gia và các cơ quan chức năng làm rõ. Tuy nhiên, các nguyên nhân tiềm ẩn từ lỗi hệ thống chưa được nhận diện một cách rõ ràng để hiệu chỉnh nhằm giảm thiểu nguy cơ từ sự cố y khoa.

Nỗi sợ hãi mang tên “sự cố y khoa”

Sự cố không mong muốn trong thực hành y khoa (sự cố y khoa) là cụm từ được Tổ chức y tế thế giới (WHO) xác định là những tác hại liên quan đến các lĩnh vực chẩn đoán, điều trị, chăm sóc, sử dụng trang thiết bị y tế để cung cấp dịch vụ y tế. Sự cố y khoa có thể phòng ngừa và không thể phòng ngừa; được chia thành 9 cấp độ theo mức độ nghiêm trọng và mức độ nghiêm trọng nhất là bệnh nhân bị tử vong. Ở các nước phát triển, số lượng tử vong do sự cố y khoa tại Mỹ (quốc gia có dân số 322 triệu) là khoảng 44.000 -98.000 người/ năm; tại Úc (dân số 24 triệu) là 18.000 và ở Canada (dân số 36 triệu) là khoảng 15.000 người/ năm. Có thể thấy tử vong do sự cố y khoa là vấn đề toàn cầu, kể cả ở các quốc gia có nền y học tiên tiến với số lượng tử vong hàng năm còn cao hơn cả tử vong do ung thư, hay tử vong do HIV. Cho đến nay không có các số liệu đầy đủ từ các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam, nhưng tỷ lệ này chắc chắn còn ở mức rất cao.

Giới thày thuốc cả trong nước hay nước ngoài đều khiếp sợ sự cố y khoa chính bởi vì nó xảy ra rất bất ngờ, chớp nhoáng, trong một số trường hợp có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối tượng đầu tiên chịu hậu quả là Bệnh nhân và gia đình của họ. Bởi lẽ dù viện dẫn tỷ lệ tử vong ở các nước phát triển vẫn cao thì đó cũng chỉ là cách nhìn sự việc từ tầm vĩ mô. Nỗi đau đến những gia đình của họ vẫn hiện hữu. Với họ khi mất đi người thân thì tỷ lệ thất bại trong điều trị được coi là 100%.

Hệ luỵ đến uy tín của ngành Y tế cũng thường được những người trong ngành Y nhắc đến. Sự cố y khoa bao gồm cả những sai sót chủ quan và có cả các nguyên nhân khách quan do bản chất Khám và điều trị là một khoa học dự đoán với mức độ chính xác không thể tuyệt đối. Tuy nhiên, với những hiểu biết không đầy đủ và tâm lý bức xúc thiếu kiểm soát đã ảnh hưởng đến uy tín của Ngành Y, của các bệnh viện, cơ sở y tế. Những hành vi bạo lực với cán bộ y tế khi xảy ra sự cố y khoa ở các cơ sở y tế trong thời gian gần đây ở Việt Nam là không thể chấp nhận và cần phải nghiêm trị.

Cấp cứu bệnh nhân bị tai biến chạy thận

Bên cạnh đó không thể không nhắc những cán bộ y tế liên quan đến sự cố y khoa. Trong các thuật ngữ y khoa, họ được nhắc đến như là một nạn nhân liên đới. Hãy thử tưởng tượng, khi chúng ta lái xe trên đường và gây tai nạn chết người, dù chúng ta đi đúng luật thì tâm lý bạn cũng bị ảnh hưởng rất nặng nề, và người thày thuốc hay cán bộ y tế cũng vậy. Nghiên cứu của WHO chỉ ra các trạng thái tâm lý mà người thày thuốc liên quan đến sự cố y khoa trải qua như xấu hổ, cảm thấy nhục nhã, sợ hãi, hoảng loạn, cảm giác tội lỗi, giận dữ và tự nghi ngờ bản thân. Những ảnh hưởng đó sẽ tiếp tục ảnh hưởng bởi các tác động dài hạn và là nguy cơ tăng các sai sót trong nghề nghiệp do sự mất tự tin của cán bộ y tế trong hành nghề.

Một điểm quan trọng là tử vong từ sự cố y khoa có thể gây ra từ lỗi của cá nhân người Thày thuốc, tuy nhiên các số liệu thống kê cho thấy ở các trường hợp tử vong nguyên nhân từ cá nhân chỉ chiếm 30%, phần lớn nguyên nhân (70%) các sự cố y khoa đến từ lỗi hệ thống.

Đầu tiên, các lỗi từ cá nhân của người Thày thuốc có liên quan chặt chẽ đến năng lực chuyên môn và tính cẩn trọng trong công việc. Nghề nghiệp nào cũng cần sự cẩn trọng, tuy nhiên trong nghề y thì sự cẩn trọng không chỉ được coi là cần thiết mà còn được coi là tối quan trọng, bởi lẽ nghề y là nghề nghiệp đặc biệt, liên quan mật thiết đến sức khoẻ và sự sống chết của con người. Tuân thủ các qui định, qui tắc, hướng dẫn là điều kiện tiên quyết trong bất cứ phương pháp điều trị nào, từ việc ghi đơn, tiêm thuốc, làm các thủ thuật hay sử dụng máy móc trang thiết bị... Sự tắc trách hay bỏ bớt, làm tắt các qui trình có thể may mắn “thoát nạn” ở một vài trường hợp. Nhưng nếu sự cố vì thế mà xảy ra thì có thể sẽ gây nên các hậu quả nghiêm trọng không thể sửa chữa sau này.

BS Hoàng Công Lương - BS Khoa Điều trị tích cực - BV Đa khoa Tỉnh Hòa Bình

Bên cạnh đó, giảm sự cố y khoa cũng liên quan chặt chẽ đến chất lượng cán bộ y tế, và điều này liên quan đến chất lượng đào tạo trong trường đại học y và đào tạo liên tục. Đào tạo của ngành Y là đào tạo dựa trên thực hành, vì vậy việc Bác sỹ được học tập và thực hành tại các bệnh viện đạt chuẩn là điều kiện rất quan trọng. Hiện nay, các mô hình như Đại học Y Hà Nội với sự kết hợp với các bệnh viện TW tuyến đầu như Bạch Mai, Việt Đức, Nhi Trung ương, Phụ sản TW... đã phần nào đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên nguy cơ từ việc mở rộng đào tạo ào ạt ngành y ở một số trường công và tư không đảm bảo chất lượng với lý do nước ta đang thiếu bác sỹ đã đặt ra những mối nguy trong tương lại không xa đối với sức khoẻ của người dân

Cùng đó là nâng cao chất lượng đào tạo liên tục. Từ thực tiễn, chúng tôi cho rằng hoạt động đào tạo liên tục, đào tạo lại cho cán bộ y tế cần phải được đẩy mạnh hơn nhiều so với hiện nay. Khoa học về Y dược đã có những bước tiến dài trong vài chục năm qua, các phác đồ điều trị đã thay đổi rất nhiều và các cán bộ y tế cần phải được tham gia các chương trình đào tạo cập nhật kiến thức. Quy định về việc Cán bộ y tế đã được cấp chứng chỉ hành nghề và đang hành nghề khám bệnh, chữa bệnh có nghĩa vụ tham gia đào tạo liên tục tối thiểu 48 tiết học trong 2 năm liên tiếp đã được Bộ Y tế qui định trong thông tư 22/ 2013/ TT-BYT. Nhưng trên thực tế thì không đi học cũng... chẳng sao cả. Chúng tôi khẳng định lỗi không phải do cán bộ y tế lười học hay trốn tránh. Nhưng họ đi học ở đâu? Giảng viên là ai? Ngân sách ở đâu? Thời gian khi nào? trong khi các bệnh viện lớn thì đang chìm đắm trong sự quá tải, các trường đại học thì đang quá bận rộn trong nhiệm vụ đào tạo đại học, Thạc sỹ, Tiến sỹ và nếu giao cho các Sở y tế các tỉnh chịu trách nhiệm tự đào tạo thì đôi khi lại rơi vào tình trạng “cơm chấm cơm”.

Trong những năm qua, Tổng hội Y học Việt Nam và các Hội chuyên khoa đã phối hợp tập huấn 10 chuyên khoa cho 30 tỉnh và với 9.000 lượt bác sỹ và cán bộ y tế được đào tạo lại. Đây là một nỗ lực rất đáng ghi nhận trong hoàn cảnh không có ngân sách hỗ trợ và các giảng viên là các Giáo sư, Tiến sỹ hàng đầu của các chuyên ngành đã tranh thủ những ngày cuối tuần đến giảng bài, chia sẻ kinh nghiệm cho các đồng nghiệp ở các địa phương. Tuy nhiên những hoạt động này do chưa được đầu tư đúng mực nên vẫn còn như muối bỏ bể, chưa trở thành một chiến lược đào tạo trong ngành và là nhiệm vụ trọng tâm như đáng lẽ nó phải như vậy. Trong khuôn khổ của các chương trình đào tạo liên tục, Nội dung trọng tâm sẽ là cập nhật các kiến thức y khoa, phòng chống sự cố y khoa, phổ biến các phác đồ mới, thông qua các tập huấn, hội thảo....

Làm thế nào để khắc phục lỗi hệ thống, giảm thiểu sự cố y khoa?

Như thống kê, 70% SCYK là do lỗi hệ thống và tình trạng này có thể giảm được ½ nếu áp dụng chặt chẽ các qui chuẩn về An toàn người bệnh. Thông thường khi xảy ra SCYK, câu hỏi thường đặt ra là ai làm sai và kết luận buộc tội cá nhân rồi kỷ luật. Ví dụ 1 bác sỹ giỏi, nhưng đã sai sót ở bệnh nhân thứ 70 trong ngày, kỷ luật là đúng, nhưng chúng ta có xem xét đến việc bác sỹ đó đang ở trong một dây chuyền quá tải, phải khám đến gấp 2 lần số lượng bệnh nhân trong ngày, phòng làm việc tối tăm, tủ bảo quản thuốc cũng quá tải nên phải để lẫn lộn các loại thuốc...

Để giảm được lỗi hệ thống, cần đặt ra các vấn đề một cách tổng thể gồm các câu hỏi sai sót có thể xảy ra ở những giai đoạn nào? Có thể do những nguyên nhân nào? Con người? Thiết bị? Thuốc? Vật tư? Phương pháp/kỹ năng? Đào tạo?... Từ đó đưa ra các giải pháp để cải thiện hệ thống bao gồm: Quản lý, quy trình khám điều trị, quản lý chất lượng thuốc, đấu thầu và sử dụng trang thiết bị, hoá chất, môi trường làm việc và tập huấn chuyên môn.

Vấn đề xã hội hoá ở các cơ sở y tế cũng cần phải xem xét lại một cách nghiêm túc và có những qyi định rất cụ thể về triển khai, giám sát và đánh giá. Trong những năm qua, xã hội hoá y tế với các hình thức như liên kết với các cá nhân hoặc các doanh nghiệp đã được áp dụng để giải quyết vốn cho trang thiết bị y tế, và gần đây là cho cả xây dựng cơ bản trong y tế. Trong tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, chúng ta không phủ nhận xã hội hóa y tế đã giúp triển khai nhiều kỹ thuật mới.

Tuy nhiên, xã hội hóa y tế công như con dao 2 lưỡi đã dẫn đến nhiều mặt trái, trở thành một yếu tố gây ra tiêu cực ở các bệnh viện công, dẫn đến những câu kết của một số lãnh đạo cơ sở y tế với nhà đầu tư tư nhân để thu lợi bất chính, làm cho người bệnh phải chi trả nhiều hơn giá trị thực tế. Vấn đề lạm dụng xét nghiệm, lạm dụng kỹ thuật, lạm dụng thuốc để thu lời từ khoản đầu tư “xã hội hoá” này cũng đang khá phổ biến và làm méo mó qui trình chẩn đoán, điều trị, đồng thời cũng gia tăng nguy cơ sự cố y khoa. Công việc quá tải, đời sống eo hẹp với mức lương và phụ cấp thấp nhất so với các ngành nghề cộng thêm sự lỏng lẻo của các cơ chế “xã hội hoá” đã đẩy các Thày thuốc trở thành đồng phạm. Họ có 1 chút tiền nhỏ để mưu sinh, còn một khoản lợi nhuận lớn hơn nhiều rơi vào túi của các cấp quản lý và nhà đầu tư.

Tổng Hội y học Việt Nam trong lần gặp gỡ gia đình BS Hoàng Công Lương - BS Khoa Điều trị tích cực - BV Đa khoa Tỉnh Hòa Bình (Ts. Bs Trương Hồng Sơn - Phó Tổng thư ký Tổng Hội y học Việt Nam kiêm Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam - Người mặc áo trắng bế con của Bs. Hoàng Công Lương)

Vì vậy cần xác định hiệu quả điều trị là quan trọng nhất và nó cần được coi là một nguyên tắc bao trùm toàn bộ chứ không chỉ là một khẩu hiệu. Các vấn đề về đấu thầu thuốc, trang thiết bị và cả việc chi trả của bảo hiểm xã hội cũng cần được coi là giải pháp để phục vụ việc đạt được chất lượng điều trị tối ưu (có cân nhắc về giá thành), nhưng không thể vì bất cứ lý do gì trói tay hoặc đẩy Thày thuốc vào việc sử dụng các sản phẩm và giải pháp kém chất lượng.

Để giảm thiểu lỗi hệ thống cần công khai và minh bạch các sự cố y khoa theo quy định. Trên thực tế đây là một điều dễ nói nhưng khó làm vì sự ngần ngại liên quan đến uy tín cá nhân và cơ sở y tế. Tuy nhiên chúng tôi xin nhấn mạnh việc công bố những sai sót y khoa là nghĩa vụ và đạo đức của Thày thuốc và nhân viên y tế trên toàn cầu. Nó cũng là cơ sở để rút kinh nghiệm để chỉnh sửa lỗi hệ thống trong khám và điều trị nhằm đảm bảo an toàn người bệnh và giúp Thày thuốc tránh được các sự cố y khoa sau này.

Thông tin từ những tập huấn gần đây của chúng tôi phối hợp với Vụ Truyền thông (Bộ Y tế) về giải quyết sự cố y khoa cũng cho thấy việc giải quyết như thế nào cũng là các kiến thức mà cán bộ y tế đang rất thiếu. Sự cố y khoa khi đã xảy ra cũng cần có những phương án giải quyết mang tính chuyên nghiệp, Cơ sở y tế cần tập trung vào việc giải đáp những lo lắng của bệnh nhân về việc “chuyện gì đã xảy ra?”, “liệu có thể sửa chữa được hay không? Đồng thời Thày thuốc và cơ sở y tế cần ý thức được trách nhiệm cứu chữa người bệnh tận tâm trong bất cứ hoàn cảnh nào và cần tiếp tục hỗ trợ bệnh nhân một cách tận tuỵ.

Bên cạnh dó, các cấp quản lý về y tế cần có những hỗ trợ về mặt tâm lý cho các cán bộ liên quan đến sự cố y khoa. Ảnh hưởng tâm lý của những cán bộ y tế này phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của sự cố y khoa, tính cách của gia đình bệnh nhân nhưng đồng thời cũng đến từ chính thái độ của đồng nghiệp, của cơ quan đơn vị và thái độ khi điều tra sự việc. Những sai sót nếu có sẽ được qui trách nhiệm, nhưng cần lắm một thái độ đúng mực, tôn trọng với người thày thuốc bởi vì sự cố y khoa có thể đến từ những yếu tố khách quan, hoặc đến từ chính những lỗi hệ thống là nguyên nhân chính nhưg âm thầm như 1 tảng băng chìm. Và sẽ không phải là điều tốt khi sau này chính chúng ta lại là bệnh nhân của những người thày thuốc mang trong mình sự tổn thương từ những sự cố y khoa trong quá khứ. Con số đó không ít khi số liệu của y tế thế giới đưa ra là 92% Thày thuốc đã từng đối mặt với sự cố y khoa ở các mức độ khác nhau.


Ts. Bs Trương Hồng Sơn - Phó Tổng thư ký Tổng Hội y học Việt Nam kiêm Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam
Ý kiến của bạn
Tags: