Số phận trẻ sinh năm Nhâm Thìn

22-01-2012 09:21 | Y học 360
google news

Lâu nay, khi nói đến khoa lý số, phương thuật dự trắc cổ đại, người ta thường chỉ hay nhắc tới tử vi, bát tự, tử bình, kỳ môn độn giáp, thái ất thần số,...

Lâu nay, khi nói đến khoa lý số, phương thuật dự trắc cổ đại, người ta thường chỉ hay nhắc tới tử vi, bát tự, tử bình, kỳ môn độn giáp, thái ất thần số,... Thực ra, còn có một bộ môn hết sức quan trọng, nằm trong hệ thống lý luận cơ bản của Đông y, đó là ngũ vận lục khí, thường hay gọi tắt là vận khí học. Trong các phương pháp dự trắc cổ đại, vận khí học được giới học thuật xưa và nay, công nhận là phương pháp có độ chính xác và giá trị thực tiễn cao nhất.

Hiện tượng “phản tổ”

Con người - tiểu vũ trụ và thiên nhiên - đại vũ trụ hợp thành một chỉnh thể hữu cơ, thống nhất. Người xưa gọi đó là “thiên nhân hợp nhất”. Đông y quan niệm, hoạt động sinh mệnh là một dạng hoạt động khí hóa; khí hóa nghĩa là hoạt động, vận động và biến hóa. Cơ thể con người là một hệ thống mở, mọi vận động của ngũ vận và biến hóa của lục khí, đều có tác động đến các quá trình khí hóa trong cơ thể người.

Ngay từ khi thai nhi hình thành, quá trình khí hóa trong nhân thể - “tiểu vũ trụ” đã thông ứng với quá trình khí hóa của đại vũ trụ. Thế là, do tác động của ngũ vận, lục khí trong đại vũ trụ, mà dần dần hình thành những khác biệt về phương diện thể chất ở từng cá thể.

Tuy suốt cả cuộc đời, quá trình khí hóa trong nhân thể luôn luôn “thông ứng” với môi trường bên ngoài, nhưng thời kỳ mang thai là giai đoạn ảnh hưởng của môi trường có tính quyết định. Chính vì thế, những trẻ sinh ra trong những năm có ngũ vận lục khí không giống nhau, do chịu những tác động và chế ước không giống nhau, mà có những đặc điểm thể chất khác nhau.

Thí dụ, những năm có hỏa vận thái quá như: Mậu Thân, Mậu Ngọ, Mậu Thìn, Mậu Dần... do thai nhi chịu tác động lâu dài của hỏa khí, khi ra đời trẻ thường có thể chất thuộc loại hình “âm hao dương thịnh”. Mặt khác, như sách Nội Kinh viết: “Tuế hỏa thái quá. Viêm thử lưu hành. Phế kim thụ tà” (hỏa khí quá thịnh, nắng nóng lan tràn, tạng phế tà khí xâm phạm), nên thường bị hen suyễn và các chứng bệnh thuộc đường hô hấp (trong Đông y chủ quản hô hấp). Như vậy, trẻ sinh ra trong những năm khác nhau, do sự tác động của ngũ vận lục khí, thường có những đặc trưng thể chất và dễ mắc các chứng bệnh không giống nhau. 

Trong vận khí học, còn có một luận đoán có giá trị khoa học hết sức đặc biệt, như sách Nội Kinh đã viết: “Hữu tương thắng chế dã, đồng giả thịnh chi, dị giả suy chi, thử thiên địa chi đạo, sinh hóa chi thường dã”. Đại ý  là: Tác động của vận khí đối với thể chất của thai nhi  tuân theo nguyên tắc “tương đồng thịnh, dị biệt suy”; nghĩa là: những tố chất, tập tính... tương đồng (về thuộc tính âm dương, ngũ hành) với vận khí lưu hành trong vũ trụ, thì phát triển mạnh, ngược lại những tố chất khác biệt thì bị suy yếu.

Điều đặc biệt lý thú là nguyên tắc “tương đồng thịnh, dị biệt suy” của vận khí học cổ đại lại trùng hợp với kết luận của di truyền học hiện đại. Những năm gần đây, các nhà khoa học đã sáng lập một lý thuyết mới có tên là thời gian biểu di truyền học. Theo đó, đặc trưng thể chất bẩm sinh ở trẻ nhỏ, không những được di truyền từ tổ tiên, mà còn mang “dấu ấn thời gian”- theo đúng nguyên tắc “tương đồng thịnh, dị biệt suy”. Nói cách khác, những đặc tính của tổ tiên, chỉ có thể truyền lại cho hậu thế, khi có những điều kiện tự nhiên thích ứng. Nói cụ thể hơn: những đặc tính của thế hệ trước chỉ được di truyền cho thế hệ sau trong điều kiện “thời - không” (thời gian và không gian) tương đồng.

Ví dụ, nếu cha (hoặc mẹ) có thể chất thuộc loại “mộc hình”, thì những đặc tính của người cha (hoặc mẹ) chỉ có thể di truyền cho con, nếu như đứa con cũng sinh ra trong năm mộc vận. Trong điều kiện “thời - không” tương phản, thí dụ đứa con sinh ra vào năm kim vận (kim khắc chế mộc), thì đặc tính của người cha  (hoặc mẹ) sẽ bị giấu kín (ẩn). Trẻ sinh ra, do chịu sự chế ước của điều kiện “thời - không”  sẽ có cả những đặc tính trái ngược với cha (hoặc mẹ). Các nhà di truyền học gọi đó  là hiện tượng “phản tổ”.

Dựa vào nguyên tắc “tương đồng thịnh, dị biệt suy”, còn có thể lý giải, vì sao một số đặc tính di truyền có thể bị “giấu kín” (ẩn), không truyền lại ngay cho thế hệ tiếp sau, mà phải tới thế hệ thứ 3 hoặc thứ 5 - khi gặp được điều kiện “thời - không” thích hợp, mới thấy xuất hiện.

Ngũ vận lục khí với “số phận” của trẻ

Trẻ sinh trong những năm có ngũ vận lục khí không giống nhau, thường có những đặc trưng thể chất khác nhau. Vậy thì trẻ sinh năm Nhâm Thìn có những đặc trưng thể chất thế nào?
 
Năm Nhâm Thìn mộc vận thái quá, Đông y gọi đó là “phát sinh chi kỷ”, “phong khí đại thịnh”. Thai nhi trưởng thành trong điều kiện phong khí đại thịnh, trẻ sinh ra thường có thể chất thuộc loại “mộc hình” (có các đặc tính của hành mộc). Hành mộc tượng phong, tính động. Phong động dễ dẫn đến “hao dương tổn âm” nên người sinh năm mộc vận thái quá thường có thân hình thấp, nhỏ, người gầy, da xanh, sắc diện thanh tú.
Theo nguyên tắc “thiên can thống vận, địa chi thống khí”: năm Nhâm Thìn có thiên can là Nhâm, địa chi là Thìn, nên tình hình ngũ vận và lục khí đại thể như sau:

 Nhâm - hóa mộc vận.  Nhâm là can dương, nên tuế vận là thuộc loại thái quá. Mộc vận thái quá, phong khí thiên thịnh, nên cường độ gió mạnh hơn bình thường; có những giai đoạn khí hậu phản thường nghiêm trọng, bỗng nhiên xuất hiện cuồng phong, giông bão, làm sập nhà, đổ cây bật gốc.

Năm Thìn: nửa đầu năm khí thái dương hàn thủy tư thiên; nửa cuối năm khí thái âm thấp thổ tại tuyền. “Thái dương hàn thủy” tư thiên, hàn khí chủ sự, nửa đầu năm khí hậu nói chung lạnh hơn bình thường. “Thái âm thấp thổ” tại tuyền, thấp khí chủ sự, nửa năm cuối mưa nhiều và độ ẩm cao hơn bình thường.

Như vậy, về phương diện khí hậu, có 3 đặc trưng chủ yếu là phong, hàn và thấp.

Ngũ vận lục khí không chỉ ảnh hưởng tới thể chất, mà còn ảnh hưởng tới sự biến hóa của khí chất con người.

Hành mộc ứng với quẻ chấn, quẻ tốn, tượng phong nên đặc điểm khí chất của những người sinh năm Nhâm Thìn thường là: nhân hậu, tính tình vội vã, hiếu động, hướng ngoại, tư duy linh hoạt sắc bén, uyển chuyển không cố chấp, có khả năng ngoại giao; nhưng ý chí dễ dao động, thường hay đa nghi và hay đố kỵ.

Mộc khí thông với tạng can. Người hành mộc dễ mắc các bệnh thuộc tạng can. Mộc khí thiên thịnh dễ sinh phong hỏa nên người sinh năm Nhâm Thìn dễ mắc các chứng tăng huyết áp, dị ứng và các bệnh thần kinh. Tuổi thọ nói chung hơi thấp.

Nắm được quy luật tác động của ngũ vận lục khí đối với sự hình thành thể chất, khí chất, Đông y không những có thể đưa ra những dự báo, mà còn có thể chủ động tiến hành các biện pháp điều chỉnh, để có thể “ưu sinh”, nhằm cải thiện thể chất, khí chất con người. Thời kỳ mang thai là giai đoạn ảnh hưởng của ngũ vận lục khí có tính quyết định. Đông y cho rằng, trong giai đoạn này, có thể lợi dụng quy luật khí hóa của ngũ vận lục khí, để tiến hành cải thiện thể chất. 

Thí dụ, thể chất người mẹ thuộc loại hình hỏa khí thiên thắng, dương khí thiên cang, nếu mang thai vào năm hỏa vận thái quá, hoặc mộc vận thái quá (như năm Nhâm Thìn – 2012), thì ở trẻ sơ sinh dễ hình thành thể chất âm hư. Để cải thiện thể chất của đứa trẻ tương lai, trong thời kỳ mang thai, người mẹ nên bổ sung thêm những loại thực phẩm  hàn lương, có tác dụng thanh nhiệt dưỡng âm như hoa quả, rau xanh, mộc nhĩ, cá mực... Ngược lại, nếu thể chất người mẹ thuộc loại hình thủy khí thiên thắng, dương khí thiên hư, lại mang thai vào năm thủy vận thái quá, thì ở trẻ sơ sinh dễ hình thành thể chất dương hư âm hàn; để điều chỉnh, trong thời kỳ mang thai người mẹ nên bổ sung một số lượng thích đáng các thức ăn, vị thuốc có tính ôn bổ như nhân sâm, hoàng kỳ, gừng khô, thịt gà...

Để ưu sinh, cải thiện thể chất, khí chất và tính cách của trẻ sơ sinh, ngoài việc cải thiện dinh dưỡng như đã nói ở trên, người mẹ cũng nên tiến hành thêm các biện pháp dưỡng sinh, dinh dưỡng tinh thần. Nói chung, cần tiến hành dưới  sự tư vấn, giám sát của thầy thuốc Đông y.

Lương y Thái  Hư

Ý kiến của bạn