Siêu sát thủ trong hành trình lịch sử

19-05-2012 07:24 | Thông tin dược học
google news

Theo y văn thế giới, bệnh cúm đã được biết đến từ thời cổ đại nhưng mãi đến năm 1932, nhà khoa học Mỹ Richard Chope mới khám phá ra virus Influenza – thủ phạm gây cúm.

(SKDS) - Theo y văn thế giới, bệnh cúm đã được biết đến từ thời cổ đại nhưng mãi đến năm 1932, nhà khoa học Mỹ Richard Chope mới khám phá ra virus Influenza – thủ phạm gây cúm. Cho đến khi bị nhận dạng, virut cúm đã kịp để lại không ít nỗi kinh hoàng cho loài người qua những trận đại dịch cướp đi sinh mạng hàng chục triệu người. Với khả năng “tàng hình” dị dạng hết sức phong phú và lây lan vô cùng nhanh chóng, đến nay, virut cúm vẫn là những siêu sát thủ nguy hiểm nhất mà loài người đã và đang phải đối mặt.

Hành trình xuyên 2 thiên niên kỷ

Cuộc chiến giằng co sự sống giữa con người và bệnh cúm có lẽ đã diễn ra từ ngàn xưa. Những ghi chép đầu tiên về bệnh cúm là vào khoảng năm 420 TCN, ông tổ ngành y Hippocrate đã từng mô tả một căn bệnh biểu lộ bằng những triệu chứng tương tự với bệnh cúm ngày nay. Dưới đế chế La Mã cổ đại, các sử gia cũng đã ghi nhận sự xuất hiện và tồn tại của nhiều loại cúm khác nhau. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì (sau đó không có các sử liệu ghi chép lại) mà trong suốt gần 2 thiên niên kỷ tiếp theo, y văn thế giới không nhắc đến căn bệnh này. Chỉ đến cuối thế kỷ 16 thì mới lại ghi nhận có trận đại dịch cúm ở người xuất hiện. Đó là vào năm 1580, dịch bắt nguồn từ châu Á, lan sang châu Phi và tấn công vào châu Âu. Trận dịch đã khiến các thành phố của Tây Ban Nha trở nên hoang tàn và làm chết 8.000 người tại thành Rome, Italy.

Từ đó về sau, gần như thế kỷ nào cũng có các trận đại dịch cúm xảy ra. Trong thế kỷ 19, y văn thế giới đã ghi nhận 2 trận đại dịch lớn nhất bùng nổ vào năm 1873 và 1889, “dân chúng chết không kịp chôn cất” – TS Laurie Garret, tác giả cuốn sách Sự thật dịch bệnh mô tả. Chỉ riêng trong thế kỷ 20, lịch sử y học đã ghi nhận ít nhất 3 vụ đại dịch có quy mô toàn cầu, đó là đại dịch cúm Tây Ban Nha vào năm 1918 làm khoảng 40 triệu người tử vong; đại dịch cúm châu Á vào năm 1957 làm 1 triệu người tử vong; lần thứ ba là đại dịch cúm Hồng Kông xuất hiện năm 1968 làm 700 ngàn người tử vong.

 Các bệnh nhân của một đại dịch cúm tại BV Walter Reed năm 1918-1919.
Dù đã tồn tại nhiều năm và tung hoành khắp nơi nhưng phải đến năm 1932, thủ phạm gây bệnh cúm mới lần đầu tiên được xác định bởi nhà khoa học Mỹ Richard Chope, đó là virus Orthomyxovirus influenzae. Những nghiên cứu sau đó đã xác định virut này gồm có 3 týp A,B,C phân biệt nhờ các phản ứng huyết thanh. Mỗi týp thường có nhiều phân týp và những kháng nguyên khác nhau.
 
Các kháng nguyên này, nhất là của týp A, thường biến đổi. Do đó, đối với virut cúm týp A, người ta thường ký hiệu theo thứ tự sau: nơi phát hiện ra virut, năm phát hiện,chỉ số kháng nguyên H (hémagglutinine) và kháng nguyên N (neuramidase). Tất cả các đại dịch cúm toàn cầu cho đến nay đều do virut cúm týp A gây ra, do sự thay đổi kháng nguyên. Các phân týp virut cúm A được ghi nhận đã gây các trận dịch lớn ở người trong các thời kỳ lịch sử là: H2N8 (1889 - 1890), H3N8 (1900 - 1903), H1N1 (1918 - 1919), H1N1 (1946 - 1947), H2N2 (1957 - 1958), H3N2 (1968 - 1969), H1N1 (1977 - 1978)...
 
Những năm cuối thế kỷ 20, người ta ghi nhận sự hoành hành ác liệt của virut cúm. Năm 1995, các nhà virut học đã tin chắc rằng, thế giới đang bị dịch cúm hết sức nguy hiểm đe dọa. Khi ấy, virut cúm Vũ Hán (lấy tên thành phố Trung Quốc, nơi lần đầu tiên virut xuất hiện, tháng 9/1995) đã lan đến châu Âu. Virus Vũ Hán lây lan với tốc độ chóng mặt: tháng 11 đã đến Singapore, tháng 12 tới Bắc Mỹ.
 
Đến đầu năm 1996, người ta đã phát hiện ra chúng ở châu Âu. Tháng 2 và tháng 3, dịch cúm gây bệnh cho 8,5 triệu công dân Đức, 2,7 triệu công dân Ba Lan… Thế nhưng vào những tháng tiếp theo, dịch bệnh lại tự động chấm dứt rồi lại hoành hành vào mùa cúm năm sau khiến riêng ở Ba Lan đã có 1,5 triệu người nhiễm bệnh. Rất may là không có đại dịch bùng phát và không có nhiều sinh mạng bị cướp đi do hầu hết các bệnh nhân đều được cứu chữa kịp thời.

“Kịch bản đen” từ những biến thể giết người

Virut cúm nguy hiểm hơn nhiều so với những gì chúng ta vẫn nghĩ. Sự nguy hiểm nằm ở chỗ nó biến thể hết sức khó lường và phong phú - yếu tố dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều giống mới. Những biến thể nguy hiểm của virut cúm xuất hiện trên cơ sở trộn lẫn nguyên liệu di truyền của hai con bệnh lây nhiễm đồng thời tấn công con người hoặc động vật. Điều làm cho các nhà khoa học lo ngại nhất là khả năng trộn lẫn nguyên liệu di truyền của virut cúm ở loài lông vũ và virut cúm trên người. “Khi ấy sẽ xuất hiện siêu virut với sức mạnh tàn sát ghê gớm mà không gì có thể ngăn cản được” - TS Reinhard Kurth, Giám đốc Viện Nghiên cứu mang tên Robert Koch ở Berlin cảnh báo.

Cho đến nay, cho dù y học hiện đại đã hiểu biết gần như rất rõ ràng về đặc tính sinh hóa học của virut cúm, thế nhưng giới khoa học vẫn chưa xác định được khả năng sát hại con người đặc biệt khủng khiếp của virut này. Bệnh cúm vẫn được coi là một bệnh không chữa được căn nguyên, chỉ điều trị triệu chứng và chúng ta cũng chưa thanh toán được bệnh cúm. Hàng năm, Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống dịch bệnh Mỹ ước tính có tới 36.000 người Mỹ tử vong do dịch cúm theo mùa, gấp 10 lần số người chết trong vụ khủng bố 11/9 và gây thiệt hại đến 160 tỉ USD, gấp đôi phí tổn sau cơn bão Katrina. Nạn nhân của nó không chỉ là trẻ em, những người ốm yếu và người cao tuổi mà cả những người hoàn toàn khỏe mạnh.

Đa số các nhà virut học tin rằng, trong tương lai có thể bùng nổ đại dịch. “Chúng tôi chỉ duy nhất không có khả năng tiên đoán một cách chính xác khi nào tai họa ập đến - ngay trong năm tới hay vài ba năm nữa” - GS người Hà Lan Albert Osterhaus, chuyên gia của WHO khẳng định. Trong lịch sử, các đại dịch cúm vẫn bùng nổ với chu kỳ khá đều, thường cứ 20 - 40 năm.
 
Thế nhưng đến nay, đã trên 30 năm mà tai họa vẫn chưa xảy ra, trong khi khả năng lây nhiễm vẫn không ngừng đe dọa. Kịch bản bi quan nhất tiên đoán rằng, tại châu Âu và châu Mỹ, khi bùng nổ dịch bệnh, trung bình cứ 4 người dân thì có 1 nhiễm bệnh. Chỉ vài ba giờ sau khi nhiễm bệnh, hàng triệu nạn nhân đã bị viêm phế quản và viêm phổi với các biểu hiện tím tái, khó thở và xuất huyết phổi. Và không ít người thiệt mạng do không thể chống cự nổi với căn bệnh. Cho đến nay, Tổ chức Y tế Thế giới vẫn cảnh báo về sự nguy hiểm của virut cúm.

Lê Thái An (Theo Journal of Applied Microbiology)


Ý kiến của bạn