Giải đáp những nguyên nhân sau đây, giúp chúng ta hiểu phần nào những biến cố có thể xảy ra, từ đó có phương pháp phòng tránh, cũng như việc điều trị tích cực, nhằm giúp đỡ phụ nữ thiên chức làm mẹ thành hiện thực.
Khi nào được gọi là sảy thai?
Sảy thai là hiện tượng kết thúc thai nghén trước khi thai có thể sống được và được bị tống ra khỏi buồng tử cung.
Những dấu hiệu nhận biết sảy thai: người bệnh có dấu hiệu của có thai, như; chậm kinh, nghén…; ra máu âm đạo: máu đỏ, lượng nhiều, máu loãng lẫn máu cục; đau bụng nhiều từng cơn vùng hạ vị. Khám: cổ tử cung đã xóa, mở, phần dưới tử cung phình to do bọc thai bị đẩy xuống phía cổ tử cung làm cho cổ tử cung có hình con quay, đôi khi sờ thấy bọc thai nằm ở ống cổ tử cung. Xét nghiệm beta HCG dương tính. Siêu âm: có hình ảnh túi thai trong buồng tử cung và có tim thai (khi thai > 6 tuần bằng siêu âm đầu dò âm đạo). Với sảy thai, có thể thấy hình ảnh túi thai tụt xuống thấp hay trong ống cổ tử cung.
Trong trường hợp sảy thai hoàn toàn; người bệnh có dấu hiệu của có thai; sau khi đau bụng, ra máu, thai ra cả bọc thai, sau đó ra máu ít dần; khám thấy cổ tử cung đóng, tử cung nhỏ hơn tuổi thai; siêu âm buồng tử cung sạch.
Trường hợp sảy thai không hoàn toàn: người bệnh có dấu hiệu của có thai và đang sảy thai. Sau khi thấy thai ra rồi vẫn còn đau bụng, còn ra máu kéo dài. Khám cổ tử cung mở và tử cung còn to. Siêu âm có hình ảnh echo không đồng nhất trong buồng tử cung.
Cách xử trí sảy thai
Trong trường hợp đang sảy thai hoặc sảy thai không hoàn toàn:
Hiện nay các thầy thuốc thường dùng Misoprostol, hàm lượng 200 microgram/viên, ngậm một bên má từ 2 - 3 viên trong 1 lần, dùng 2 lần, cách nhau 4 giờ. Thuốc có tác dụng tống xuất khối thai trong trường hợp đang sảy hoặc tống xuất phần sót lại trong lòng tử cung trong trường hợp sảy thai không hoàn toàn. Kết hợp dùng thuốc giảm đau như: Paracetamol 0,5g uống mỗi lần 1 viên, ngày 3 viên. Dùng thuốc kháng sinh phổ rộng bằng đường uống, như Augmentin 625 mg, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên. Dùng trong 5 - 7 ngày.
Trường hợp ra máu nhiều, mệt, người bệnh có dấu hiệu của choáng mất máu:
Cần truyền dịch với dung dịch mặn đẳng trương như Natriclorua 0,9% 500ml truyền tĩnh mạch chảy nhanh LX giọt/phút. Đồng thời tiến hành nạo hút lòng tử cung để cầm máu. Sau đó dùng thuốc co hồi tử cung bằng Oxytocin 5 đơn vị/ống, dùng 2 - 4 ống pha vào chai dịch truyền NaCl 0,9% 500ml. Truyền tĩnh mạch. Hoặc Ergometrin 0,2mg x 1 - 2 ống/tiêm bắp). Kháng sinh đề phòng nhiễm khuẩn.
Trong trường hợp sảy thai hoàn toàn:
Nghĩa là khối thai đã được tống xuất hoàn toàn ra khỏi buồng tử cung. Điều trị chỉ cần dùng thuốc kháng sinh phổ rộng bằng đường uống để phòng nhiễm khuẩn.
Nguyên nhân nào?
Trên thực tế có 5 nhóm nguyên nhân thường gặp như sau:
Nhóm thứ nhất, người bệnh có bất thường cấu trúc tử cung do bẩm sinh (tử cung đôi, tử cung có sừng, vách ngăn, tử cung là một dãy xơ...) hoặc do mắc phải (u xơ tử cung, lạc nội mạc trong cơ tử cung, dính buồng tử cung sau khi hút nạo thai không đúng kỹ thuật, bị nhiễm trùng).
Khi tử cung có cấu trúc bất thường sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển của bào thai, làm tăng nguy cơ sảy thai.
Nhóm thứ 2, người bệnh có bất thường về nội tiết, thường gặp nhất là người bệnh bị suy hoàng thể. Nếu vì lý do nào đó hoàng thể bị suy yếu, không cung cấp đủ nội tiết cho thai phát triển sẽ dẫn đến thai suy, không phát triển được. Bất thường nội tiết còn hay gặp ở người bị hội chứng buồng trứng đa nang. Người bệnh bị hội chứng này rất khó có thai và khi có thai rất dễ bị sảy.
Người bệnh có bất thường cấu trúc tử cung do u xơ tử cung
Nhóm thứ 3, người bệnh có bệnh lý nội khoa như: bệnh lý tuyến giáp, đái tháo đường, tim mạch, thiếu máu. Hoặc bệnh lý nhiễm trùng hoặc nhiễm ký sinh trùng. Với những bệnh lý nội khoa này, nếu người bệnh chưa điều trị ổn sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển của thai nhi.
Nhóm thứ tư, bất thường nhiễm sắc thể, đây là nguyên nhân rất thường gặp. Các chuyên gia ghi nhận 90% trường hợp sảy thai tự nhiên có liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể trong tam cá nguyệt I. Bất thường nhiễm sắc thể có thể do người chồng, do người vợ, do cả hai vợ chồng (hiếm gặp) hoặc do quá trình phân chia tế bào của hợp tử để tạo thành phôi thai có bất thường.
Nhóm thứ 5, yếu tố miễn dịch, thường là các rối loạn tự miễn như hội chứng anti phospholipid. Nếu bị hội chứng này, khi quá trình thụ thai bắt đầu sẽ xảy ra hiện tượng viêm và tắc mạch vi thể, gây thiếu máu nuôi thai dẫn đến thai ngừng phát triển.
Nếu bất thường nhiễm sắc thể, phải áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản
Những giải pháp và phòng ngừa
Sau đợt sảy thai, hầu hết các bà mẹ lo lắng, bi quan. Với lời khuyên của bác sĩ chuyên khoa phụ sản, chúng ta có nhiều cách giải pháp cho những lần mang thai tới. Qua bài viết này, tác giả muốn cung cấp những thông tin nhằm giúp các bà mẹ có cách giải quyết cho bản thân mình từ nguyên nhân nào gây sảy thai, đồng thời cũng nhắn gởi những bà mẹ sắp có ý định sinh bé, cần thiết có những thông tin tham khảo bổ ích giúp phòng ngừa cho bản thân một cách hợp lý nhất.
Cụ thể, nếu người vợ có u xơ tử cung sẽ được phẫu thuật bóc u xơ, nếu dính buồng tử cung sẽ phẫu thuật nội soi tách dính, nếu có bệnh nội khoa liên quan đến nội tiết hay bệnh lý nội khoa toàn thân, bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm ký sinh trùng. Sẽ chuyển đến bác sĩ chuyên khoa điều trị tích cực. Sau đó sẽ mang thai.
Nếu bất thường nhiễm sắc thể phải áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản: xin tinh trùng nếu tinh trùng của chồng bất thường, xin trứng nếu vợ bất thường hoặc xin phôi nếu cả hai vợ chồng đều bị bất thường nhiễm sắc thể (hiếm gặp).
Nếu người bệnh có hội chứng anti phospholipid sẽ được điều trị bằng Heparin trọng lượng phân tử thấp để giảm nguy cơ tạo ra huyết khối.
Nếu không tìm ra nguyên nhân, bác sĩ chuyên khoa sẽ có chế độ dưỡng thai tích cực như bổ sung nội tiết cho thai phụ để dưỡng thai.
Trường hợp tử cung là một dãy xơ thì không can thiệp được nhưng đã có giải pháp nhờngười mang thai hộ.
90% trường hợp sảy thai tự nhiên có liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể
BS.CKII. NGUYỄN HỮU THUẬN