Bệnh sâu răng là một bệnh của tổ chức cứng, biểu hiện bằng sự hủy khoáng các thành phần tổ chức và sự phá hủy tổ chức cứng của răng tạo nên lỗ hổng trên bề mặt răng.
Bệnh sâu răng là một bệnh mạn tính, bệnh tiến triển từ từ qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn sớm có thể chỉ là những đốm trắng hoặc đục xuất hiện trên mặt nhai hay kẽ giữa hai răng. Thường khó phát hiện do người bệnh không thấy đau. Chỉ đến khi lỗ sâu lớn ăn vào lớp ngà răng thì mới xuất hiện đau với cường độ nhẹ, hay cảm giác ê buốt thoáng qua với các kích thích nóng, lạnh của bệnh lý tủy. Lúc này sâu răng mới được phát hiện và điều trị.
Chế độ ăn nhiều đường dễ khiến răng bị sâu. |
Nguyên nhân gây sâu răng
Nước bọt cung cấp các yếu tố bảo vệ tự nhiên cho răng. Giảm dòng chảy nước bọt đến mức tối thiểu sẽ làm tăng nguy cơ sâu răng mặc dù quá trình sâu răng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. |
Vai trò của đường
Sự lên men đường có vai trò quan trọng trong việc gây bệnh sâu răng. Các loại carbohydrate khác nhau có đặc tính gây sâu răng khác nhau. Sucrose (đường mía) có khả năng gây sâu răng cao hơn các loại đường khác.
Đường trong chế độ ăn được chia làm 2 loại: đường nội sinh (đường trong hoa quả và rau) và đường ngoại sinh (đường bổ sung, nước quả tổng hợp, sữa). Đường ngoại sinh có khả năng gây bệnh cao hơn do vậy nên giảm đường ngoại sinh trong chế độ ăn.
Các nghiên cứu cho thấy sự liên quan trực tiếp giữa chế độ ăn đường và tỷ lệ bệnh sâu răng phụ thuộc vào cách thức và tần suất ăn đường hơn là tổng lượng đường tiêu thụ của mỗi cá thể. Nguy cơ sâu răng sẽ cao hơn ở những cá thể ăn đường giữa các bữa ăn và ở những cá thể hay ăn các loại đường dính trên bề mặt răng.
Nhóm yếu tố nguy cơ khác
Tình trạng men răng như men răng thiểu sản hay men răng kém khoáng hóa có thể ảnh hưởng đến tiến triển của tổn thương sâu răng. Do khả năng hòa tan men tỷ lệ nghịch với nồng độ fluor của men răng vì thế với men răng thiểu sản hay men kém khoáng hóa thì khả năng tái khoáng kém hơn răng bình thường.
Hình thể và vị trí răng với những răng có hố rãnh sâu hay răng lệch lạc thì nguy cơ sâu răng cao hơn do sự tập trung cũng như khả năng lưu giữ mảng bám.
Sự bất thường của tuyến nước bọt cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc cũng như tốc độ tiến triển của bệnh sâu răng do khả năng bảo vệ răng khỏi các acid gây sâu răng.
Nước bọt cung cấp các yếu tố bảo vệ tự nhiên cho răng. Giảm dòng chảy nước bọt đến mức tối thiểu sẽ làm tăng nguy cơ sâu răng mặc dù quá trình sâu răng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
Hình ảnh giải phẫu răng bị sâu. |
Chế độ ăn
Ăn nhiều đường, nhất là ăn vặt thường xuyên giữa các bữa ăn chính làm tăng nguy cơ sâu răng.
Thói quen ăn uống trước khi đi ngủ, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, việc cho bú bình kéo dài với sữa và các loại chất ngọt nhất là bú trong khi ngủ làm tăng tỷ lệ sâu răng gây nên hội chứng bú bình.
Chỉnh nha, sử dụng hàm giả bán phần, trám răng không đúng quy cách làm tăng khả năng lưu giữ các mảnh thức ăn, mảng bám vi khuẩn do đó làm tăng nguy cơ gây sâu răng.
Tóm lại, tuy không phải là một bệnh cấp tính nhưng nếu không được điều trị sớm và kịp thời sâu răng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập và công việc. Để phòng ngừa bệnh sâu răng chúng ta cần có chế độ ăn uống hợp lý cũng như thói quen vệ sinh răng miệng đúng cách. Kết hợp với khám răng miệng định kỳ 6 tháng/lần để phát hiện sớm các dấu hiệu sâu răng và có biện pháp điều trị kịp thời.
BS. Nguyễn Phương Thảo