Sau ngập lũ lịch sử, cần xác định tần suất lũ để nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống đê điều

12-10-2025 16:29 | Xã hội
google news

SKĐS - Mưa lớn làm mực nước sông Cầu vượt đỉnh lũ hai năm liên tiếp là dấu hiệu cho thấy cần tính toán chính xác lại tần suất xuất hiện của đợt lũ lần này. Việc vượt lũ lịch sử hơn 1m đã vượt tiêu chuẩn lũ mà hệ thống đê cấp 3 có thể đáp ứng được.

Sau ngập lũ lịch sử, cần xác định tần suất lũ để nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống đê điều- Ảnh 1.Hà Nội, Thái Nguyên và Bắc Ninh phải đảm bảo an toàn đê điều ứng phó với lũ đặc biệt lớn

SKĐS - Lũ lịch sử thiết lập mức cao kỷ lục trên hàng loạt sông, Bộ Nông nghiệp và Môi trường yêu cầu các tỉnh, thành phố Hà Nội, Thái Nguyên, Bắc Ninh phải đảm bảo an toàn đê điều, ứng phó với lũ.

Nguyên nhân khiến nước tràn trên nhiều tuyến đê trong cơn mưa lũ vừa qua

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, thời kỳ từ 11/9-10/10/2025, Biển Đông ghi nhận tới 4 cơn bão, gồm Mitag (bão số 8), Ragasa (bão số 9), Bualoi (bão số 10) và Matmo (bão số 11). Trong đó, ba cơn bão sau ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta, gây ra những hậu quả nặng nề về người, tài sản và đời sống.

Mưa lớn kéo dài từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 khiến lũ từ thượng nguồn đổ về, làm mực nước sông Cầu, sông Thương, sông Trung và sông Cà Lồ liên tục vượt báo động 3, có nơi vượt đỉnh lũ lịch sử.

Nhiều khu vực hạ lưu như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Cao Bằng và Hà Nội xảy ra ngập lụt nghiêm trọng, nhiều nơi bị cô lập, giao thông tê liệt. Người dân phải sơ tán, nhiều gia đình vẫn đang nỗ lực khắc phục hậu quả sau lũ.

Sau ngập lũ lịch sử, cần xác định tần suất lũ để nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống đê điều- Ảnh 2.

Mưa lũ lịch sử gây ngập úng, thiệt hại lớn về tài sản của người dân. Ảnh: Tuấn Anh

Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Quy hoạch Thuỷ lợi, năng lực cắt lũ chính của hệ thống thuỷ lợi miền Bắc nằm ở các hồ chứa lớn là hồ thuỷ điện. Chẳng hạn, trên nhánh sông Đà có các hồ như Hòa Bình, Lai Châu, Sơn La, nhánh sông Lô - Gâm có hồ Tuyên Quang...

Tuy nhiên, lưu vực sông Thái Bình (gồm sông Cầu) không có vị trí phù hợp để làm những hồ chứa công suất lớn tương tự. Lưu vực sông Cầu đoạn qua Thái Nguyên có hơn 300 hồ thuỷ lợi lớn nhỏ, nhưng chỉ hai hồ có thể tham gia điều tiết lũ là Nặm Cắt và Núi Cốc. Tuy nhiên, cả hai hồ này đều không thể tham gia nhiều vào việc "cứu nguy" vùng rốn ngập trong đợt lũ vừa qua.

Trên dòng chính sông Cầu chỉ có hồ Hồ Nặm Cắt, tuy nhiên hồ có dung tích không lớn (13,3 triệu m3), và nằm ở thượng nguồn (thuộc Bắc Kạn cũ). Trong khi, lượng mưa cực đoan trong hai ngày 6-7/10 đổ xuống gần như toàn lưu vực sông Cầu, tức phần lớn nằm ngoài khả năng điều tiết lũ của Nặm Cắt.

Còn hồ Núi Cốc có dung tích lớn (175,5 triệu m3), song nằm ở nhánh sông Công, hợp lưu với sông Cầu ở hạ lưu so với trung tâm TP Thái Nguyên. Như vậy, hồ Núi Cốc không thể điều tiết lưu lượng lũ từ sông Cầu. 

PGS.TS Vũ Thanh Ca, nguyên giảng viên cao cấp, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, đánh giá hệ thống đê hạ lưu sông Cầu còn yếu. Các tuyến đê được đầu tư kiên cố chủ yếu tập trung ở khu vực xung yếu, gia cố bằng bê tông. Phần lớn các đoạn còn lại là đê đất, được xây dựng từ lâu trên nền đất yếu. Dù được kiểm tra, duy tu, bảo dưỡng hàng năm nhưng một số vị trí chưa đáp ứng được yêu cầu chống những cơn lũ mạnh, vượt đỉnh lũ lịch sử như hiện nay. Khi hệ thống đê điều bị vô hiệu hoá, việc giảm lũ chỉ có thể trông chờ vào khả năng tiêu thoát nước của khu vực.

PGS.TS Vũ Thanh Ca phân tích hiện tại, hệ thống tiêu thoát nước tại Thái Nguyên là tiêu tự chảy, không có van tại cửa thoát nước nên mực nước trong thành phố phụ thuộc vào mực nước sông. Vì vậy, khu vực như Thái Nguyên rơi vào thế bị động trong việc tiêu thoát nước.

Hệ thống thoát nước đầy đủ của một đô thị cần được bố trí máy bơm cưỡng bức. Bởi ngay cả khi hệ thống đê bao quanh Thái Nguyên ngăn được nước từ sông Cầu tràn vào, thì vẫn phải đối mặt với lượng mưa trực tiếp bên trong, từ đồi, núi xung quanh chảy vào. Nếu chỉ dựa vào đê mà không có hệ thống bơm, nước mưa trong thành phố không thể tiêu thoát, dễ gây ngập úng.

Để dùng bơm tiêu thoát, đê phía sông cần phải cao và vững chắc, chống lại được nước tràn đê và áp lực nước từ sông. Tuy nhiên, nhiều vị trí tại Thái Nguyên có đê bối (đê bao được xây dựng bên ngoài đê chính), nhưng cũng rất yếu. Nếu bơm để thoát hết nước bên trong thì chênh lệch áp lực nước lớn giữa trong và ngoài có thể làm vỡ đê. Do đó, giải pháp tiêu thoát nước cơ học trở nên bất khả thi.

Tính toán nâng cao các tuyến đê ứng phó với biến đổi khí hậu

Ngày 9/10, Chính phủ yêu cầu rà soát quy hoạch phòng chống lũ, đê điều và nâng cấp hệ thống đê điều, nhất là tại Thái Nguyên và Bắc Ninh. Các chuyên gia cho rằng, mưa lớn làm mực nước sông Cầu vượt đỉnh lũ hai năm liên tiếp là dấu hiệu cho thấy cần tính toán chính xác lại tần suất xuất hiện của đợt lũ lần này. Việc vượt lũ lịch sử hơn 1 m đã vượt tiêu chuẩn lũ mà hệ thống đê cấp 3 có thể đáp ứng được.

PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn, cho biết sau trận lũ này, Viện Quy hoạch Thủy lợi sẽ tiến hành đánh giá đầy đủ để đề xuất giải pháp năng lực thoát lũ cho khu vực Thái Nguyên và các vùng lân cận. Hệ thống đê điều của Thái Nguyên hiện vẫn bảo đảm theo công suất thiết kế, tuy nhiên với những diễn biến cực đoan thì cần cập nhật, kiểm tra lại tần suất lũ thiết kế. Đối với những vị trí xung yếu, thường xuyên bị tràn có thể phải tính toán nâng cao trình tuyến đê.

Ngoài ra, ông đề xuất nghiên cứu xây thêm hồ chứa ở vùng thượng nguồn sông Cầu, mở rộng khả năng cắt lũ cho vùng lõi của thành phố Thái Nguyên. Cùng với đó, tiếp tục mở rộng đập Thác Huống để tăng khả năng thoát lũ cho sông Cầu đoạn qua đô thị trung tâm Thái Nguyên. Ông cũng cho rằng cần đánh giá lại và tăng cường bảo vệ, đảm bảo không gian thoát lũ dọc tuyến sông Cầu xuống đến hạ du.

Từ Luật đê điều năm 2006, hệ thống đê Việt Nam được xếp thành 6 cấp gồm cấp đặc biệt và các đê cấp 1 đến cấp 5. Việc xác định quy hoạch cấp đê phụ thuộc vào quy mô của vùng cần bảo vệ, tức diện tích, quy mô hộ dân và lưu lượng nước sông. Bên cạnh đó, các yếu tố về quy mô kinh tế, xã hội cũng ảnh hưởng đến quyết định nâng cấp đê. Nếu một đê nào đó bị vỡ, gây ngập một vùng vô cùng rộng hoặc bảo vệ một vùng kinh tế rất lớn thì đê sẽ được nâng cấp.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết: "Từ đầu năm nay, Việt Nam đã trải qua 20 loại hình thiên tai khác nhau. Dự báo năm nay có khoảng 13 cơn bão, trong đó 5-7 cơn tác động trực tiếp vào Việt Nam. Tuy nhiên, hiện đã có 11 cơn bão và 6 cơn bão tác động trực tiếp vào Việt Nam, để lại hậu quả rất nặng nề".

Theo thống kê, đến thời điểm này, thiên tai đã khiến 238 người chết và mất tích, 367 người bị thương, hơn 258.000 ngôi nhà bị hư hỏng và 555.000 ha lúa, hoa màu bị thiệt hại. Ước tính thiệt hại kinh tế lên đến 33.500 tỷ đồng, tăng mạnh so với cùng kỳ 2024. Riêng mưa lũ do bão số 11 đã khiến ít nhất 15 người chết và mất tích, 16.900 ngôi nhà bị ngập, chủ yếu tại Cao Bằng, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Hà Nội.

Các chuyên gia khí tượng cảnh báo, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thiên tai ngày càng khó lường, cực đoan và dữ dội hơn. Những hình thái như mưa lớn trong thời gian ngắn, bão mạnh di chuyển nhanh, lũ quét, sạt lở… ngày càng trở nên phổ biến.

Do đó, chính quyền các cấp và người dân cần chủ động theo dõi sát các bản tin dự báo, cảnh báo ngắn hạn (1-3 ngày), cập nhật phương án ứng phó phù hợp, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, thủy sản và cơ sở hạ tầng tại các vùng dễ bị tổn thương.

Sau ngập lũ lịch sử, cần xác định tần suất lũ để nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống đê điều- Ảnh 3.Khẩn trương đảm bảo an toàn đê điều, ứng phó với lũ lên nhanh trên các sông

SKĐS - Từ nay (29/9) đến 1/10, trên sông Thao (Lào Cai), sông Hoàng Long (Ninh Bình), sông Đà (Phú Thọ) có khả năng xuất hiện 1 đợt lũ; lũ trên các sông từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh tiếp tục lên.


Tô Hội
Ý kiến của bạn