Sang hè, cảnh giác với bệnh lỵ trực khuẩn

20-04-2012 07:16 | Phòng mạch online
google news

Thời tiết đã chuyển sang nắng nóng, cơ thể chúng ta dễ bị mệt mỏi uể oải, kém ăn, kém ngủ, giảm sức đề kháng. Trái lại, nhiệt độ cao lại làm cho thức ăn mau ôi thiu, vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hóa phát triển mạnh, dễ gây bệnh dịch như tả, lỵ, thương hàn.

Thời tiết đã chuyển sang nắng nóng, cơ thể chúng ta dễ bị mệt mỏi uể oải, kém ăn, kém ngủ, giảm sức đề kháng. Trái lại, nhiệt độ cao lại làm cho thức ăn mau ôi thiu, vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hóa phát triển mạnh, dễ gây bệnh dịch như tả, lỵ, thương hàn.
 
Dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5 sắp đến, mọi gia đình, nhiều cơ quan thường tổ chức đi du lịch dã ngoại, ăn uống khó đảm bảo vệ sinh ở những nơi đông người nên nguy cơ mắc bệnh đường tiêu hóa nói chung và bệnh lỵ trực khuẩn nói riêng càng cao. Để giúp bạn đọc có kiến thức phòng chống bệnh dịch, báo Sức khỏe&Đời sống giới thiệu bài viết về bệnh lỵ trực khuẩn.
 Ảnh minh họa (nguồn Internet)

Bệnh lây từ người sang người qua ăn uống

Các nghiên cứu cho thấy, người mang vi khuẩn là nguồn lây bệnh chính, gồm: người mắc bệnh lỵ cấp tính, người có bệnh lỵ mạn tính và người lành mang vi khuẩn. Trong đó bệnh nhân bị lỵ cấp tính là nguồn lây bệnh nguy hiểm nhất, vì trong thời gian bị bệnh, họ thải một khối lượng lớn vi khuẩn qua phân ra ngoài.
 
Hơn thế đối với bệnh nhân mắc bệnh nhẹ thường không ai để ý, không bị cách ly, không được điều trị sớm, nên càng dễ lây bệnh cho người nhà và những người chăm sóc. Người có bệnh lỵ mạn tính thì bản thân họ không biết mình bị bệnh, người thân càng không biết bệnh của họ, nên vô tình khi tiếp xúc trong sinh hoạt, ăn uống, ở chung nhà rất dễ bị lây bệnh. Người lành mang vi khuẩn gây bệnh là những người trước đây đã tiếp xúc với bệnh nhân hoặc bị nhiễm khuẩn qua ăn uống nhưng chưa phát thành bệnh, họ cũng là nguồn thải ra vi khuẩn và gây bệnh cho người khác.
 
Vi khuẩn Shigella lây trực tiếp hoặc gián tiếp qua đường tiêu hóa. Lây trực tiếp là lây từ người bệnh sang người lành do bàn tay nhiễm khuẩn của người bệnh, lây vào miệng người lành. Lây gián tiếp là vi khuẩn nhiễm vào thức ăn, nước uống rồi người lành ăn uống phải mà lây bệnh. Lây gián tiếp còn do ruồi nhặng làm nhiễm khuẩn từ bệnh phẩm sang thức ăn, nước uống.

Những thể bệnh lỵ trực khuẩn

Khi một người bị nhiễm khuẩn, thời gian ủ bệnh từ 1 - 7 ngày, bệnh khởi phát đột ngột, với 2 hội chứng nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ. Hội chứng nhiễm khuẩn gồm  sốt cao 38 - 39oC, người rét run, nhức đầu, mệt mỏi, đau lưng, đau khớp, chán ăn, khát nước, đắng miệng, buồn nôn  hoặc nôn, trẻ em có thể bị co giật. Hội chứng lỵ gồm các triệu chứng: đau quặn, mót rặn, đi ngoài phân có nhầy máu.
 
Đau bụng, lúc đầu đau âm ỉ quanh rốn, sau lan ra khắp bụng, cuối cùng là những cơn đau quặn bụng, khu trú ở hố chậu trái. Bệnh nhân thường bị đau quặn, mót rặn mỗi khi đi ngoài. Mỗi ngày đi trên 10 lần, có khi tới vài chục lần mỗi ngày. Tính chất phân lúc đầu sền sệt, sau loãng, rất thối, có lẫn nhầy và máu. Phân nhầy nhiều, thường đục nhờ nhờ, hoặc vàng đục như mủ, máu sẫm như máu cá, nhầy và máu hòa loãng với nhau không có độ bám dính.
 
 Vi khuẩn Shigella gây bệnh lỵ trực khuẩn.
Bệnh lỵ trực khuẩn
thường gặp một số thể bệnh như sau: Thể nhẹ thì hội chứng nhiễm khuẩn nhẹ hoặc không rõ, chỉ sốt nhẹ 37,5 - 38oC, váng đầu, hơi mệt. Hội chứng lỵ đau quặn bụng, đi ngoài dưới 10 lần/ngày, phục hồi trong vòng 1 tuần. Thể bệnh vừa, có hội chứng nhiễm khuẩn: sốt  vừa 38 - 40oC, đau đầu, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp hạ. Đi ngoài từ 15 - 20 lần/ngày, kèm theo mất nước với biểu hiện khát nước, môi khô. Thể bệnh nặng, có hội chứng nhiễm khuẩn rõ rệt, kéo dài hơn 1 tuần, hội chứng lỵ: đau quặn bụng dữ dội, mót rặn kèm mót tiểu không kìm được, đi ngoài trên 30 lần/ngày, có khi đến hàng trăm lần một ngày, mất nước, rối loạn điện giải.
 
Người bệnh suy kiệt chỉ nằm đại tiện tại chỗ, hậu môn mở rộng, phân tự chảy, toàn mủ và máu, mắt trũng, mặt hốc hác, mạch nhanh yếu, nhịp tim mờ, huyết áp hạ, thở gấp, li bì, ngủ gà, có thể tử vong sau 3 - 7 ngày nếu không được điều trị. Thể tối độc: tuy ít gặp nhưng nguy hiểm, với biểu hiện: đi ngoài nhiều, phân nhầy mủ, có khi toàn máu, có thể  tử vong trong vài ngày đầu do hôn mê, trụy tim mạch. Lỵ mạn tính: hay gặp ở trẻ em, có thời kỳ bột phát và thuyên giảm xen kẽ. Đợt bột phát như lỵ cấp nhẹ hoặc vừa, giai đoạn thuyên giảm vẫn rối loạn tiêu hóa. Lỵ mạn tính ở người cao tuổi, kéo dài không còn giai đoạn thuyên giảm, bệnh ngày càng nặng, sức khỏe suy sụp dần, rối loạn tiêu hóa nặng, thiếu máu.

Những điều cần chú ý trong chữa bệnh

Khi đã phát hiện bệnh nhân bị lỵ trực khuẩn cần phải cách ly bệnh nhân, mọi đồ dùng sinh hoạt của bệnh nhân như bát đũa, cốc uống nước, khăn, thau rửa mặt… đều phải dùng riêng. Trong thời gian điều trị cần phải có chế độ ăn thích hợp, cụ thể: chỉ ăn kiêng trong vài ngày đầu, sau đó trở lại chế độ ăn bình thường từ ngày thứ 3 trở đi. Nếu trẻ còn bú mẹ thì vẫn cho bú như thường lệ. Đối với trẻ đang bú sữa bình thì vẫn cho ăn bình thường bằng loại sữa đã ăn quen, không thay sữa khác, không hạn chế số lần uống, số lượng sữa.
 
 Rửa tay bằng xà phòng là biện pháp phòng bệnh lỵ trực khuẩn rất hiệu quả.
Người lớn, trong vài ngày đầu dùng cháo ninh nhừ, nấu với thịt, cá. Ngày thứ 3 trở đi cho ăn cháo đặc với thịt, trứng, khoai tây nghiền, sữa chua, sau đó ăn cơm nát, thịt nạc luộc, nước hoa quả. Không nên ăn thức ăn có nhiều bã, thảo mộc khô. Bù nước và điện giải đường uống đối với thể nhẹ và vừa, tốt nhất là dùng dung dịch oresol uống theo nhu cầu cơ thể. Thể nặng cần truyền dịch. Nâng cao thể trạng bằng việc dùng vitamin nhóm B, nhất là B1, vitamin C. Chườm nóng để hạn chế đau bụng, ngâm mông trong nước ấm để chống đau rát hậu môn.   

Phòng bệnh lỵ trực khuẩn hiệu quả và dễ thực hiện nhất là ăn chín, uống sôi. Cảnh giác phát hiện sớm, cách ly điều trị bệnh nhân lỵ cấp. Khử khuẩn các chất thải của bệnh nhân bằng vôi sống 20%, nước vôi 10%. Tiệt khuẩn dụng cụ, quần áo bệnh nhân bằng cách đun sôi hoặc ngâm cloramin 2%. Ðối với những người tiếp xúc với bệnh nhân cần được theo dõi 7 ngày. Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn uống, sau khi đi vệ sinh và lao động, sau khi tiếp xúc chăm sóc bệnh nhân. Tích cực diệt ruồi, nhặng. Không dùng phân tươi để bón ruộng. Quản lý và xử lý phân nước, rác hợp vệ sinh.

ThS. Nguyễn Xuân Lãm


Ý kiến của bạn