Sá sùng là sinh vật sống ở các bãi cát ven biển, còn gọi là trùn biển, giun biển, mồi, địa sâm, sa sùng, sâu đất, sâu biển, đồn đột, chặt khoai. Sá sùng có 2 loại là: Loại nhỏ có tên khoa học Sipunculus nudus Linnaeus, thuộc họ sâu đất Sipunculidae, dài khoảng 10cm, nặng 10 - 12g, thân tròn như ống, màu hồng nhạt, phần giữa thân có 30 sợi cơ dọc bao quanh, rất linh hoạt; Loại to gọi là sá sùng chuối, tên khoa học Sipunculus sp, cũng họ sâu đất Sipunculidae, nặng tới 120g, thân màu nâu nhạt, có cơ dọc giữa thân dưới 30 sợi và hoạt động chậm chạp hơn loại nhỏ.
Sá sùng thấy nhiều ở vùng bờ biển có các bãi cát pha bùn thuộc vịnh Bắc Bộ trong đó nổi tiếng và ngon nhất vẫn là sá sùng ở đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Người ta thường khai thác vào các tháng 3 - 7 là thời điểm sá sùng có chất lượng tốt nhất. Khi thủy triều xuống, dùng mai đào cát để bắt và lộn trái thân, bỏ nội tạng và đất cát, đem phơi hoặc sấy khô để ăn hay dành làm thuốc. Là loại giàu dinh dưỡng nên sá sùng đang được nghiên cứu đưa vào thành phần của các loại thực phẩm chức năng dành cho người ung thư.
Người ta đã phân tích thành phần dinh dưỡng trong sá sùng có nhiều axit amin, glyxin, alanin, glutamin, succinic... và nhiều taurin, khoáng chất. Trong sá sùng khô thấy chứa acid amin tự do 10,3%, trong đó acid amin có vị ngọt như glycin 3,2%, alanin 2,5%, glutamin 0,25%, succinic 0,35%... là chất tạo nên hương vị thơm ngọt của loài hải sản này. Trong sá sùng còn giàu taurin 3,2%, chất khoáng 1,2%, nên ngay từ xa xưa, loại hải sản này đã được mệnh danh là địa sâm. Còn gần đây, theo kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Khoa học tự nhiên TP. Hồ Chí Minh cho thấy, sá sùng là loại giàu dinh dưỡng với lượng đạm khá cao, chứa nhiều acid amin quý và nhiều khoáng chất, cụ thể có tới 17 nguyên tố khoáng và 18 loại acid amin với 8 loại không thể thay thế phải dung nạp từ thực phẩm...
Sá sùng khô. |
Bởi vậy xưa kia, khi chưa ra đời bột ngọt, người ta vẫn sử dụng sá sùng để chế biến thành nước phở thơm ngon; ngày nay, sá sùng trở thành loại đặc sản cao cấp dùng cho các quý ông tại các nhà hàng sang trọng vì nó vừa bổ dưỡng lại thơm ngon hơn cá mực.
Đông y cho rằng sá sùng có vị mặn, tính mát, có tác dụng bổ dương (có công hiệu bổ thận, tráng dương, ích tinh), thanh nhiệt (tư âm giáng hỏa), thanh phế kiện tỳ. Chủ trị các chứng bệnh như cốt chưng triều nhiệt, âm hư đạo hãn, hung muộn, phế hư khái thấu đàm đa, dạ niệu, nha ngân thũng thống... Đặc biệt, sá sùng được dùng làm thuốc bổ dưỡng rất phổ biến trong cư dân vùng biển. Họ thường dùng dưới dạng món ăn, vị thuốc như nấu cháo, nấu canh, nướng vàng hoặc xào với củ nghệ.
Dưới đây xin nêu vài phương thuốc tiêu biểu trị liệu các bệnh chứng có dùng sá sùng.
Chữa yếu sinh lý, liệt dương: Theo kinh nghiệm dân gian của Việt Nam và Trung Quốc, thịt sá sùng phơi hoặc sấy khô rồi nướng giòn, tán nhỏ, rây bột mịn, uống với liều 6 - 10g mỗi lần, chiêu với nước ấm hoặc rượu, ngày 3 lần. Thuốc có công hiệu bổ thận, tráng dương, ích tinh.
Hoặc dùng món ăn thuốc (có công dụng bổ ngũ tạng, tư âm, tráng dương, tăng cường khí lực cho cơ thể, chữa yếu sinh lý): Lá dâm dương hoắc 50g, rửa sạch cho vào đáy nồi, đổ ngập nước rồi để xửng lên trên, sá sùng tươi 200g trộn đều với 50g lá hẹ, dầu vừng 20g, rồi xếp đều sá sùng đã được trộn đều lên trên xửng và hấp, đun sôi 15 phút là ăn được, chấm với nước mắm chua cay hay muối tiêu, chanh.
Trị chứng triều nhiệt (biểu hiện nóng chưng bốc ở tầng sâu bên trong, hay sốt về chiều, đổ mồ hôi trộm gặp trong lao phổi, lao xương khớp): dùng sá sùng khô 5g, cát cánh 5g và tuyền phúc hoa 3g, sắc uống mỗi ngày 1 thang, chia 3 lần. Hay dùng sá sùng khô 5g, thanh cao 5g, địa cốt bì 3g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần uống.
Trị hen suyễn ho đờm: sá sùng khô 5g, cát cánh 5g, tuyền phúc hoa 3g, sắc uống ngày 1 thang.
Trị răng lợi sưng đau: sá sùng tươi 10g, khô 5g, sắc uống chia 2 lần.
BS. Hoàng Xuân Đại