Rubella được phát hiện như thế nào?
Ở thế kỷ 17, Bác sĩ người Đức Daniel Sennert lần đầu tiên mô tả căn bệnh này vào năm 1619, gọi nó là röteln, hay rubella, biểu hiện của căn bệnh này là những phát ban màu đỏ đi kèm với bệnh.
Mãi đến năm 1814, lần đầu tiên nó được mô tả là một căn bệnh riêng biệt trong tài liệu y khoa của Đức, do đó có tên chung là “sởi Đức”, cái tên này xuất phát từ việc căn bệnh này được các bác sĩ người Đức nghiên cứu kỹ lưỡng.
Henry Veale, một bác sĩ phẫu thuật của Pháo binh Hoàng gia Anh, đã mô tả một đợt bùng phát ở Ấn Độ vào năm 1866. Ông đặt tên "rubella" (rubella có nguồn gốc từ tiếng Latinh, có nghĩa là “chấm đỏ nhỏ”). Rubella ban đầu được coi là một dạng biến thể của bệnh sởi hoặc ban đỏ.
Năm 1881, tại Đại hội Y khoa Quốc tế ở London, Rubella chính thức được công nhận là một loại bệnh riêng biệt.
Năm 1914, bác sỹ người Mỹ Alfred F. Hess đã đưa ra giả thuyết về nguyên nhân Rubella là do virus gây ra dựa trên nghiên cứu của ông với khỉ. Năm 1938, Hiro và Tosaka đã xác nhận điều này bằng cách chọn lọc các ca bệnh trẻ em cấp tính có sử dụng phương pháp rửa mũi bằng màng lọc.
Trước khi có vaccine rubella, phụ nữ mang thai phải đối mặt với nguy hiểm thế nào
Năm 1940, sau một trận đại dịch rubella lan rộng vào năm 1940, Norman Gregg, một bác sĩ nhãn khoa người Úc, đã báo cáo dựa trên ghi chép trong vòng 1 năm về sự xuất hiện của bệnh đục thủy tinh thể bẩm sinh ở trẻ sơ sinh được sinh ra sau khi mẹ mắc bệnh rubella trong trận đại dịch trước đó. Cụ thể, 78 trường hợp đục thủy tinh thể bẩm sinh ở trẻ sơ sinh và 68 trường hợp trong số đó được sinh ra từ những bà mẹ bị nhiễm rubella trong thời kỳ đầu mang thai.
Ông mô tả nhiều vấn đề hiện được gọi là hội chứng rubella bẩm sinh (CRS) và nhận thấy rằng người mẹ bị nhiễm bệnh càng sớm thì tổn thương càng nặng. Vì chưa có vaccine nên một số tạp chí nổi tiếng đã quảng bá ý tưởng tổ chức "bữa tiệc sởi Đức" cho những đứa trẻ bị nhiễm bệnh với mục đích truyền bệnh cho những đứa trẻ khác (đặc biệt là các bé gái) để chúng được miễn dịch suốt đời và bảo vệ chúng khỏi mắc bệnh sau này khi mang thai.
Trong thời gian này, một đại dịch rubella đã diễn ra từ năm 1962 đến năm 1965, bắt đầu ở Châu Âu và lan sang Hoa Kỳ. Trong những năm 1964–1965, Hoa Kỳ ước tính có khoảng 12,5 triệu ca mắc rubella. Điều này dẫn đến 11.000 ca sẩy thai hoặc phá thai bằng thuốc và 20.000 trường hợp mắc hội chứng rubella bẩm sinh. Trong số này, 2.100 trẻ sơ sinh chết, 12.000 trẻ bị điếc, 3.580 trẻ bị mù và 1.800 trẻ bị thiểu năng trí tuệ. Chỉ riêng ở New York, CRS đã ảnh hưởng đến 1% tổng số ca sinh.
Đây cũng là lần đầu tiên hội chứng rubella bẩm sinh (CRS) được công bố. Sau đó, virus rubella lần đầu tiên được nuôi cấy và phân lập vào năm 1962 bởi Paul D. Parkman và Tiến sĩ Harry M. Meyer và Franklin A. Neva.
Vaccine rubella đầu tiên được cấp phép vào năm 1969. Năm 1971, vaccine kết hợp sởi, quai bị và rubella (MMR) được cấp phép sử dụng tại Hoa Kỳ. Năm 2005, vaccine kết hợp sởi, quai bị, rubella và thủy đậu (MMRV) đã được cấp phép. Đến năm 2006, các trường hợp rubella được xác nhận ở Châu Mỹ đã giảm xuống dưới 3000 ca một năm. Tuy nhiên, đợt bùng phát năm 2007 ở Argentina, Brazil và Chile đã đẩy số ca mắc bệnh lên 13.000 trong một năm.