80% trẻ em mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có vấn đề về giấc ngủ
Trẻ sơ sinh dành phần lớn năm đầu đời để ngủ. Đó là thời gian để trẻ phát triển não bộ, khi các kết nối thần kinh hình thành và ký ức cảm giác được mã hóa. Nhưng khi giấc ngủ bị gián đoạn, sự phát triển não cũng có thể bị ảnh hưởng.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Tâm thần học Hoa Kỳ , các nhà nghiên cứu báo cáo rằng trong mẫu nghiên cứu của hơn 400 trẻ sơ sinh từ 6 đến 12 tháng tuổi, những trẻ sau đó được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ có nhiều khả năng khó ngủ. Khó ngủ này có liên quan đến quỹ đạo tăng trưởng thay đổi ở vùng hải mã. Hồi hải mã rất quan trọng đối với việc học và trí nhớ, và những thay đổi về kích thước của hải mã có liên quan đến giấc ngủ kém ở trẻ trưởng thành.
Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đầu tiên chúng tôi nhận thấy có mối liên hệ ở trẻ sơ sinh khi mới 6 tháng tuổi. Tác giả nghiên cứu chính Kate MacDuffie, Trung tâm Tự kỷ UW cho biết.
Theo TS. Annette Estes, Giám đốc Trung tâm Tự kỷ UW, có đến 80% trẻ em mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có vấn đề về giấc ngủ, nhưng phần lớn các nghiên cứu hiện có, trên trẻ sơ sinh có anh chị em mắc chứng tự kỷ, cũng như các biện pháp can thiệp được thiết kế để cải thiện kết quả cho trẻ tự kỷ, tập trung vào hành vi và nhận thức.
Vậy giấc ngủ và chứng tự kỷ có liên quan như thế nào? Các vấn đề về giấc ngủ làm trầm trọng thêm các triệu chứng tự kỷ, hay các triệu chứng tự kỷ dẫn đến các vấn đề về giấc ngủ?...
Theo các nhà khoa học, có thể giấc ngủ bị thay đổi là một phần của chứng tự kỷ đối với một số trẻ. Một manh mối là các biện pháp can thiệp hành vi để cải thiện giấc ngủ không có tác dụng đối với tất cả trẻ em mắc chứng tự kỷ, ngay cả khi cha mẹ trẻ đã làm mọi cách. Có thể có một thành phần sinh học gây khó ngủ cho một số trẻ tự kỷ.
Rối loạn phổ tự kỷ có liên quan tới rối loạn giấc ngủ.
Mối liên hệ giữa tăng trưởng hồi hải mã và các vấn đề về giấc ngủ ở trẻ tự kỷ
Để xem xét mối liên hệ giữa giấc ngủ, sự phát triển não bộ và chứng tự kỷ, các nhà nghiên cứu tại Mạng lưới IBIS đã xem xét quét MRI của 432 trẻ sơ sinh, phụ huynh được khảo sát về mô hình giấc ngủ và đo chức năng nhận thức.
Khi bắt đầu nghiên cứu, trẻ sơ sinh được phân loại theo nguy cơ phát triển bệnh tự kỷ: Những trẻ có nguy cơ mắc bệnh tự kỷ cao hơn - khoảng 2/3 mẫu nghiên cứu - có anh chị của trẻ đã được chẩn đoán tự kỷ. 1/3 trong số 432 trẻ sơ sinh được xác định là “nguy cơ thấp” tại thời điểm quét MRI vì chúng không có tiền sử gia đình mắc chứng tự kỷ. Sau đó, các nhà khoa học đã đánh giá tất cả những trẻ tham gia ở 24 tháng tuổi để xác định xem có bị tự kỷ hay không.
Trong số 2/3 trẻ em ban đầu được coi là “nguy cơ gia đình cao”, 71 trẻ được chẩn đoán mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ ở độ tuổi đó. Một nghiên cứu năm 2017 của Mạng lưới IBIS cũng cho thấy trẻ sơ sinh (có anh chị em mắc chứng tự kỷ) có diện tích bề mặt vỏ não mở rộng ở 6 và 12 tháng tuổi có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ so với trẻ không có các chỉ số này.
Những kết quả đó cho phép các nhà nghiên cứu kiểm tra lại các bản quét não dọc và dữ liệu hành vi được thu thập trước đó và xác định một số mẫu cho thấy, các vấn đề với giấc ngủ là phổ biến hơn ở những trẻ sau này được chẩn đoán mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ và có đồi hải mã lớn hơn. Không có cấu trúc não dưới vỏ nào khác bị ảnh hưởng, bao gồm cả amygdala, chịu trách nhiệm cho một số cảm xúc và khía cạnh nhất định của bộ nhớ, hoặc đồi thị, một bộ truyền tín hiệu từ tủy sống đến vỏ não. Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng hồi hải mã và các vấn đề về giấc ngủ ở trẻ sơ sinh được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ.
Trong khi nghiên cứu về giấc ngủ của UW đã tìm thấy một mô hình thể tích hồi hải mã lớn hơn và các vấn đề về giấc ngủ thường xuyên hơn, trong số những trẻ tiếp tục được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ, điều chưa biết là liệu có mối quan hệ nhân quả hay không. “Phát hiện của chúng tôi mới chỉ là khởi đầu - chúng đặt sự chú ý vào một giai đoạn phát triển nhất định và cấu trúc não cụ thể nhưng để lại nhiều câu hỏi mở để khám phá trong những nghiên cứu tương lai” - TS. MacDuffiecho biết.