Trong nhân dân, thường dùng ráy gai để trị một số chứng bệnh sau:
Viêm gan vàng da hoặc suy gan: ráy gai 12 - 16g sắc uống trước bữa ăn 1 tiếng rưỡi, ngày 2-3 lần uống. Để tăng hiệu quả, có thể phối hợp với diệp hạ châu, nhân trần, mã đề, mỗi vị 12g. Uống liền 3 - 4 tuần tới khi các triệu chứng thuyên giảm hoặc ráy gai phối hợp với nghệ vàng, mỗi vị 12g, sắc uống, ngày 1 thang, trước bữa ăn. Uống liền 3 - 4 tuần lễ.
Trị cơ thể suy nhược sau sốt rét hoặc các di chứng sau sốt rét: ráy gai ngày 12g sắc uống hoặc ráy gai, đảng sâm, hoàng kỳ, bạch truật, cam thảo mỗi vị 12g, sắc uống.
Cây ráy gai. |
Trị tê thấp, bàn chân tê buốt: ráy gai, kê huyết đằng, cẩu tích, tỳ giải, ngưu tất, mỗi vị 12g, sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trước bữa ăn. Uống liền 3 - 4 tuần lễ đến khi các triệu chứng thuyên giảm. Để tăng hiệu quả, nhất là trường hợp hai bàn chân tê buốt, có thể sau mỗi lần sắc thuốc, thêm một củ gừng tươi khoảng 20g, rửa sạch, giã dập cho vào bã của lần sắc cuối cùng, thêm ngập nước, đun sôi 30 phút. Gạn lấy nước này, để vừa ấm, ngâm ngập 2 bàn chân khoảng 30 phút rồi lau khô.
Trị đau lưng, đau gối, đau xương khớp: ráy gai, ngũ gia bì, ngưu tất, cẩu tích, cốt toái bổ, bạch thược, đỗ trọng, trần bì, mỗi vị 20g, ngâm rượu uống.
Trị viêm tinh hoàn: ráy gai 12g, lệ chi hạch (hạt vải): gọt bỏ vỏ đỏ, cắt bỏ rốn hạt, thái mỏng 3 - 5mm, sao vàng; lá trâu cổ (lá vẩy ốc) sao vàng, mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần trước bữa ăn. Uống nhiều thang cho tới khi các triệu chứng thuyên giảm.
Trị ho do phế nhiệt, nước tiểu vàng, đậm màu: phối hợp ráy gai với bạc hà, mạch môn, huyền sâm, râu ngô, mỗi vị 10 - 12g sắc uống, ngày 1 thang. Uống liền 1 - 2 tuần đến khi hết các triệu chứng.
Lưu ý: tránh nhầm lẫn ráy gai với một số cây mang tên ráy hoặc các cây khác cùng họ ráy như ráy leo hay còn gọi là ráy leo lá rách, lân tơ uyn [Rapphidophora decursiva (Roxb.) Schott], họ ráy (araceae) hoặc cây ráy dại hay còn gọi là dã vu [Alocacia macrorrhiza (L.) Schott], họ ráy (araceae) hoặc cây củ chóc, còn gọi là bán hạ nam [Typhonium trilobatum (L.) Schott], họ ráy (araceae). Ngoài ra, cũng cần tránh nhầm với vị thuốc thổ phục linh vì ráy gai cũng có thể chất, hình dáng và màu nâu nhạt tương tự vị thổ phục linh.
GS.TS. Phạm Xuân Sinh