Quỳnh phủ Nguyễn Diêu - Nhà thơ, nhà soạn tuồng kiệt xuất

03-06-2012 07:25 | Văn hóa – Giải trí
google news

Nguyễn Diêu là tác giả của bộ tuồng Ngũ hổ bình Liêu còn gọi là Ngũ hổ bình Tây (ba hồi), vở Tiết Giao đoạt ngọc (còn gọi Võ Tam Tư chém cáo) đều rất nổi tiếng và các vở Liệu đố (chữa bệnh ghen), Văn vệ quốc...

(SKDS) - Trong 2 ngày 22 và 23/5 vừa qua, một hội thảo khoa học về danh nhân Nguyễn Diêu đã được tiến hành tại TP. Quy Nhơn, Bình Định dưới sự chủ trì của UBND tỉnh Bình Định, Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Gần 100 giáo sư, tiến sĩ, văn nghệ sĩ trong và ngoài nước đã tham gia hội thảo. Gần 40 tham luận đã được đọc tại hội thảo. Báo SK&ĐS xin trích đăng bài viết của GS. Hoàng Chương.

Nguyễn Diêu là tác giả của bộ tuồng Ngũ hổ bình Liêu còn gọi là Ngũ hổ bình Tây (ba hồi), vở Tiết Giao đoạt ngọc (còn gọi Võ Tam Tư chém cáo) đều rất nổi tiếng và các vở Liệu đố (chữa bệnh ghen), Văn vệ quốc... Riêng bộ tuồng Ngũ hổ bình Liêu của Nguyễn Diêu đã được hầu hết các đoàn tuồng ở miền Trung và Nam bộ biểu diễn suốt hơn một thế kỷ qua. Người yêu tuồng đều nhớ tên một số nhân vật hoặc thuộc một số câu tuồng của Nguyễn Diêu. Những câu nói lối trong vở tuồng Ngũ hổ bình Liêu đã trở thành bài tập cho nhiều thế hệ nghệ sĩ tài danh.

Đặc biệt, Hồ Chủ tịch đã thuộc tuồng Ngũ hổ bình Tây của Nguyễn Diêu và đã từng nhắc tuồng cho ông Lê Văn Hiến - nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chánh hát. Cử chỉ ấy của Bác đã làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên và khâm phục, từ đó khi đi thăm các nước XHCN, Bác Hồ đều bảo ông Lê Văn Hiến hát lớp tuồng Thoại Ba - Địch Thanh cho nhân dân nước bạn nghe. Rõ ràng chưa có một vở tuồng cổ nào phổ cập bằng tuồng của cụ Nguyễn Diêu.

Nếu những nhân vật của Đào Tấn như Tiết Cương, Trần Lan Anh (tuồng Hộ Sanh đàn), Triệu Khánh Sanh, Kiều Quang (tuồng Diễn Võ đình), Quan Công, Trương Phi (tuồng Cổ thành), Hoàng Phi Hổ, Văn Trọng (bộ tuồng Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan Phong thần) đã quá quen thuộc với khán giả tuồng cả nước thì những nhân vật như Địch Thanh, Thoại Ba, Lưu Khánh… (tuồng Ngũ hổ), Tiết Giao, Hồ Nguyệt Cô (tuồng Hồ Nguyệt Cô hóa cáo)… của Nguyễn Diêu cũng quen thuộc không kém và còn một số điểm vượt trội như bộ tuồng Ngũ hổ bình Liêu và vở Hồ Nguyệt Cô hóa cáo.
 
 Hồ Nguyệt Cô là nhân vật nổi tiếng trong tác phẩm của nhà soạn tuồng Nguyễn Diêu.
Chúng tôi đã đưa trích đoạn tuồng Hồ Nguyệt cô hóa cáo đi giới thiệu nhiều lần ở Mỹ, ở châu Âu và ở đâu cũng được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt. Trong khi kịch bản tuồng Đào Tấn chưa được in ấn rộng rãi thì kịch bản tuồng của Nguyễn Diêu đã xuất bản ở Sài Gòn từ năm 1970 với cuốn sách Ngũ hổ bình Tây do Trần Văn Hương và Lê Ngọc Trụ sưu tầm, giới thiệu và nhà xuất bản Khai Trí xuất bản. Điều đó chứng tỏ trí thức Nam bộ đã sớm biết tuồng Nguyễn Diêu và đã quan tâm tới những giá trị văn học dân tộc dù đang sống trong chế độ Mỹ - ngụy trước 1975.

Vậy Nguyễn Diêu là ai mà có thể làm thầy Đào Tấn và viết ra được những vở tuồng sống mãi với thời gian mà ngay cả Bác Hồ cũng biết và yêu thích.

Theo một số tư liệu được công bố gần đây thì Quỳnh phủ Nguyễn Diêu sinh năm 1822, mất 1880 (?), quê ở làng Nhơn Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, Bình Định, cùng quê với Đào Tấn và thi sĩ Xuân Diệu sau này. Ông nổi tiếng văn hay, học giỏi nhưng chỉ thi đỗ ở bậc Tú tài (nên dân gian gọi ông là “Cụ Tú Nhơn Ân”). Vì vướng bận mối tình trắc ẩn mà ông đau khổ nên không thể thi đỗ lên bậc cao hơn mặc dù ông có thừa kiến thức. Từ đó, ông không đi thi nữa mà mở trường dạy học tại quê hương, trọn đời làm một ông giáo làng, một ông nghiệp sư tuồng bình dị mà vĩ đại đã viết nên những pho tuồng bất hủ và đào tạo ra nhiều chí sĩ và nhiều tài năng tuồng trong đó nổi bật là Đào Tấn – danh nhân văn hóa dân tộc, hậu tổ nghệ thuật tuồng.

Tuy là hai thầy trò có ảnh hưởng tới nhau nhưng Đào Tấn và Nguyễn Diêu mỗi người đều có riêng một quan điểm khai thác đề tài và thi pháp nghệ thuật khác nhau. Đào Tấn vốn là một đại quan trong triều Nguyễn (như Gơttơ ở nước Đức) nên cảm hứng nghệ thuật từ cuộc sống ở cung đình với đủ loại nhân vật vua quan quyền quý, trung nịnh luôn luôn đối lập nhau, luôn luôn có âm mưu thôn tính lẫn nhau nên tính xung đột, tính bạo liệt bao trùm trong tác phẩm của ông, dĩ nhiên là ông đã Việt Nam hóa truyện cổ Trung Hoa như Nguyễn Du với Truyện Kiều. Còn Nguyễn Diêu lại chủ yếu sống ở nông thôn nên cảm hứng sáng tác từ hiện thực xã hội quanh mình, với những nhân vật rất tiêu biểu của nông thôn Việt Nam như các nhân vật lý trưởng, hương mục, hề đồng, chủ quán rất chân thực và sinh động.

Nếu đề tài chính sự và hình tượng người anh hùng cứu nước là trung tâm sáng tạo của tuồng Đào Tấn thì đề tài hiếu nghĩa, nhân ái, thủy chung của đạo làm người cùng những tình cảm bình thường của tình yêu, tình người quán xuyến trong tác phẩm của Nguyễn Diêu. Như vở Ngũ hổ bình Liêu với hai nhân vật chính là Địch Thanh (nguyên súy nước Tống) và Thoại Ba (công chúa nước Đơn), cả hai đều là những bậc anh hùng, nữ kiệt. Nhưng điều Nguyễn Diêu quan tâm trong vở tuồng này  không phải là Địch Thanh, Thoại Ba anh hùng dũng lược thế nào, bình Liêu bình Tây ra sao mà chính là mối tình xuyên suốt thời gian, không gian của họ.
 
Cho dù quá trình diễn biến vở tuồng có vô số những cuộc đánh nhau giữa Tống - Đơn, Tống - Liêu nhưng đấy chỉ là cái nền để làm nổi bật vẻ đẹp của mối tình Địch Thanh - Thoại Ba, một tình yêu rất bình thường nhưng cũng rất cao cả, vượt qua bao thử thách cam go, vượt qua bao định kiến, khoảng cách tưởng như không thể vượt qua ở đời. Phải chăng vì thế mà vở tuồng Ngũ hổ bình Liêu là vở tuồng bất hủ về đề tài tình yêu, về tình hữu nghị mà ở thời đại nào cũng chinh phục được đông đảo người xem, nhất là nữ giới, kể cả lãnh tụ Hồ Chí Minh như trên tôi đã nói.

Cũng viết về tình yêu nhưng vở tuồng Tiết Giao đoạt ngọc (còn có tên là Hồ Nguyệt Cô hóa cáo) là tình yêu ở một dạng khác, một bên thì nhằm thỏa mãn dục vọng, còn một bên thì nhằm mục đích lọc lừa được diễn tả một cách cực kỳ bạo liệt, được thể hiện cảnh Hồ Nguyệt Cô yêu Tiết Giao một cách mù quáng. Cô dùng sức mạnh  của người đàn bà có ma thuật để khuất phục một chàng trai non tơ vào lưới tình ngây ngất rồi buông cả viên ngọc quý do tu luyện nghìn năm mà có cho Tiết Giao chiếm đoạt, để rồi phải chịu thảm kịch quay về kiếp cáo và bị chính người chồng của mình là Võ Tam Tư chém chết.

Khác với mối tình trong sáng cao đẹp giữa Địch Thanh và Thoại Ba, câu chuyện tình giữa Hồ Nguyệt Cô và Tiết Giao lại nhằm nêu một bài học cảnh tỉnh cho con người rằng: sống ở đời này phải luôn cảnh giác trước mọi dục vọng, cám dỗ, giữ lấy phẩm chất “ngọc quý” của “con người” mới có thể tránh được những bi kịch đau thương. Giá trị nhân văn sâu sắc và luôn mang tính hiện đại  ấy đã làm vở tuồng Tiết Giao đoạt ngọc được đánh giá là một trong những vở tuồng lớn nhất trong lịch sử nghệ thuật tuồng, sánh ngang với những kiệt tác Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Cổ thành, Diễn võ đình, Hộ sanh đàn, Trầm hương các… đã tồn tại mãi trên sân khấu hàng trăm năm qua và đã trở thành những hình tượng khó quên trong hàng triệu người xem nhiều thế hệ.

Tính nhân văn trong tuồng của cụ Nguyễn Diêu còn thể hiện rất rõ trong vở  tuồng bi hài Liệu đố. Nội dung vở tuồng là một câu chuyện tình yêu gần giống những chuyện dân gian như Lâm Sanh – Xuân Nương, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Tống Trân – Cúc Hoa... nhưng Liệu đố có một chủ tâm, một ý đồ lớn rất mới mẻ mang tính toàn cầu nhằm giải quyết một vấn nạn xã hội đang tồn tại như một căn bệnh trầm kha nguy hiểm dẫn tới những bi hài kịch: bệnh ghen của người phụ nữ mà sân khấu thế giới từ cổ đại đến hiện đại đều có những tác phẩm bi kịch nói về bệnh ghen, điển hình như Otenlo của Shakespeare. Liên hệ trong tuồng Nghêu – Sò – Ốc – Hến cũng có những lớp mụ huyện đánh ghen; trong chèo cổ Chu Mãi Thần cũng có lớp đánh ghen “Tuần Ty – Đào Huế”... nhưng không đặc sắc như tuồng Liệu đố của Nguyễn Diêu. 
 
Trong Liệu đố có nhiều nhân vật tốt, xấu, thiện ác đan xen nhưng tập trung vào ba nhân vật chính là chàng thư sinh Châu Anh và hai cô gái Ngọc Mai và Kim Liên trong mối quan hệ người ta thường gọi là “tình yêu tay ba” mang ý nghĩa giáo dục và triết luận sâu xa hơn. Từ những yếu tố ngẫu nhiên bất ngờ mà tạo ra quan hệ rắc rối và cũng từ đó nảy ra những xung đột dữ dội giữa hai phụ nữ có chung một tấm chồng: nàng Ngọc Mai với bệnh ghen gần như bẩm sinh, căn bệnh xã hội trầm kha được đẩy lên tới đỉnh điểm bởi hoàn cảnh trớ trêu của số phận và nàng Kim Liên tài sắc vẹn toàn đã hóa giải bệnh ghen đó bằng tình cảm chân thành và sự hy sinh không so đo tính toán để tìm ra con đường ấm êm hạnh phúc tưởng như không thể có được cho một gia đình “chồng một vợ hai”. Vở tuồng nhằm “chữa bệnh ghen” trở thành vở tuồng đi tìm hạnh phúc chân chính và chân lý sống tốt đẹp cho con người.

Có đọc và xem hết những vở tuồng cũng như thơ văn của Nguyễn Diêu mới thấy rõ bút pháp và tài nghệ xuất chúng của Nguyễn Diêu được thể hiện trong bất kỳ thể loại nào, đề tài nào. Văn chương của ông như những viên ngọc lấp lánh trên những trang sách, cũng như trên sân khấu, nó đã in đậm trong lòng độc giả, khán giả hôm qua và chắc chắn sẽ còn in dấu sâu đậm trong lòng độc giả, khán giả hôm nay và ngày mai.

Chỉ điểm qua vài nét trên cũng có thể thấy Nguyễn Diêu là một tên tuổi lớn của sân khấu và nghệ thuật truyền thống Việt Nam và thành tựu sân khấu của ông hoàn toàn có thể sánh ngang với người học trò thiên tài của mình, hậu tổ tuồng Đào Tấn cũng như sánh ngang với những kịch tác gia cổ điển thế giới. Nhưng rất tiếc, cho đến nay, thân thế và sự nghiệp của ông chưa được nghiên cứu đầy đủ và tôn vinh xứng đáng vì nhiều lý do, như trọn đời ông chỉ sống ở làng quê của mình, các di cảo của ông không có điều kiện được gìn giữ cẩn thận. Trước đây, người ta chỉ biết ông là tác giả của bộ tuồng Ngũ hổ bình Liêu, vở Liệu đốthì gần như biệt tích, còn vở Tiết Giao đoạt ngọclại được một số học giả tưởng nhầm là của Đào Tấn? Những khiếm khuyết này đều do việc còn xem thường danh nhân, xem thường di sản văn hóa dân tộc cũng như việc đầu tư nghiên cứu và quảng bá chưa tới nơi, tới chốn.        

  GS. Hoàng Chương


Ý kiến của bạn