Bình quân cứ độ dăm năm, nhà thơ Trần Ninh Hồ lại có một “đợt” xuất bản thơ. Anh là cây bút sung sức trong suốt mấy thập niên vừa qua của nền thơ hiện đại Việt Nam, từ cuộc chiến tranh chống Mỹ cho đến ngày hôm nay. Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã có cuộc trao đổi với nhà thơ Trần Ninh Hồ bằng một cách nhìn riêng biệt.
Nhà thơ Trần Ninh Hồ.
Võ Thị Xuân Hà (VTXH): Lữ thứ với con người (một tập thơ của Trần Ninh Hồ) - góc nhìn thời đại và nghĩa rộng bao hàm của nó?
Trần Ninh Hồ: Vị trí của tuyệt đại đa số các nhà thơ và nghệ sĩ trong cuộc đời này là ở đâu nhỉ? Nói một cách khác là thiên chức, thiên lương (chứ không phải là chức năng, nhiệm vụ) của họ? Đó là điều mà tôi thường suy ngẫm. Nếu cần phải kêu gọi, hiệu triệu, thì đấy là công việc của những người đứng đầu một tổ chức lớn, một quốc gia. Nếu cần phải giảng giải, răn dạy, thì là việc của các nhà giáo và các nhà truyền giáo (hòa thượng, linh mục, giáo chủ). Nếu cần phải áp đặt, thì đấy là việc của pháp luật... Còn nhà thơ và nghệ sĩ, có lẽ việc của họ là sẻ chia, tâm sự, gợi mở. Đôi khi cũng phải thét lên, nhưng có lẽ không nhiều lắm!
Lữ thứ với con người là theo cái hàm ý ấy. “Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ/Lấy ai mà giải nỗi hàn, ôn” (Bà Huyện Thanh Quan). Lấy “người lữ thứ” mà chia sẻ nỗi hàn, ôn (lạnh, nóng) của kiếp người, chứ chia sẻ chi với “kẻ chốn chương đài”, nơi lầu hồng gác tía!
Vội vã hay thư thả cũng là đi giữa dòng đời này thôi. “Lữ thứ” ở đây là một cách đi, một động từ. Bạn hỏi thì phải nói, chứ với thơ, có lẽ cũng chả nên quá rạch ròi. Phải thế không?
VTXH: Còn Cho người tôi thương nhớ, hẳn là một bản tình ca về trái tim con người?
TNH: Vâng, tôi cũng ước thế. Nhưng liệu nó có xứng là như thế không nhỉ? Trái tim con người ư? Một biểu tượng tuyệt vời của thế giới xúc cảm. Nhưng kể cả khi nó - trái tim - được là một biểu tượng truyền đời, tôi cũng không dám lạm dụng! Cụ thể là trong cả một tập thơ có tới 169 bài thơ tình, dày tới hơn 200 trang in này, cũng chỉ có một bài (Ca dao trên tuyết) là tôi dùng đến chữ “tim”!
Khi viết, nhất là khi viết thơ, tôi rất sợ những hình ảnh, những biểu tượng quen thuộc, đã đành. Nhưng nhân đây, tôi cũng xin được phép hủy bỏ trong tôi những khái niệm có tính bày vẽ kinh viện, khi người ta cứ thích chia ra thơ hướng nội, thơ hướng ngoại, thơ trí tuệ, thơ xúc cảm... Làm gì mà lắm loại thơ như thế! “Tức cảnh sinh tình” thôi. Chia một tia chớp ra làm nhiều khúc làm gì! Mà có chia được không chứ? Trong tiếng ta có chữ “nghĩ” thiên về duy lý. Có chữ “cảm” nghiêng về duy cảm. Nhưng lại có chữ “ngẫm”. Tôi thích cái chữ “ngẫm” này lắm, vì dường như nó bao hàm cả “nghĩ” và “cảm”.
Cho người tôi thương nhớ, có người bảo cái đầu đề tập thơ này hơi... quê và cải lương nữa! Nhưng biết làm thế nào, khi thật lòng tôi chỉ muốn viết rồi gửi cho những người như thế. Tôi có thể chọn một đầu đề “mô-đéc” hơn, ví dụ như “cho người phe nước mắt”, vì nhớ thương thì hẳn là nhiều nước mắt, nhưng những chữ đó có phải của tôi đâu. Của một ông Tây nào đấy chứ! Mà tôi thì lại thuộc “phe” dùng chữ làm thơ, chứ không dùng thơ để nói... chữ, khoe chữ! “Bắt chước cái hiện đại/ Quên phắt cái hiện thời/ Làm sao thơ còn mãi/ Khi mãi còn chơi chơi”.
Lại còn có người bảo: thơ tình gì mà dùng đến “hai mươi khúc đề từ” cho một tập? Người ta chê thế cũng phải, vì thông thường mỗi một tập chỉ nên có một đề từ. Nhưng đây là thơ tình yêu, cái loại “tình” này nó chi phối rất nhiều... tình khác! Có khi nó là Giây lát, có lúc nó lại là Vô biên. Xin bạn đừng cho tôi là tín đồ của Freud. Vì thế ở loại thơ này mới có cái sự “thẩm định” trái khoáy đến mức: “Có những câu thơ chỉ viết tặng em thôi/ Nhà phê bình đọc xong bảo là thơ... chiến trận!/ Lại có những câu thơ viết ngay trong lửa đạn/ Tới tay em, em lại bảo thơ tình!”.
Thế đấy! Có lúc nào bạn định bỏ văn xuôi để sang (hay lên) làm phê bình thẩm định thơ chưa?
VTXH: Trong một bài thơ anh viết: “Riêng cái chết của nhà thơ không phải lúc nào cũng quá buồn đâu nhé/ Ấy là khi nhà thơ đã tự né mình đi cho ánh sáng tràn vào/ Đầy trang sách. Không một dòng khuất lấp/ Bởi cái bóng - nhà - thơ - thế - tục đã che đi!” (Bài Tiễn biệt nhà thơ). Có phải đây là một trong những tuyên ngôn thơ của Trần Ninh Hồ?
TNH: Gọi là tuyên ngôn thơ hay tuyên ngôn gì thì cũng khí... to tát! Khi viết những dòng ấy, tôi chỉ nghĩ một cách đơn giản là hình như sau cái chết, con người bình đẳng hơn? Lúc ấy làm gì có thơ tổng thống hay thơ móc cống! Thậm chí không còn có cả thơ mới hay cũ nữa, mà chỉ có hay hoặc dở, đáng thờ hay không đáng thờ (Nguyễn Huy Lượng), đáng nhớ hay không đáng nhớ (với thế gian) thôi.
Cũng như gần đây tôi viết:
“Nơi nào anh cũng có mặt/ Sách, báo tên anh trang đầu/ Vậy mà đời sao tệ bạc/ Không ai chịu nhớ anh lâu” (Nghịch lý 1).
Cũng chỉ là những “Tuyên ngôn... vặt” thôi!
VTXH: Anh được biết đến như một nhà thơ ào ạt đi trong trào lưu thơ đương đại, vừa rất hào hoa trong ngôn cách, lại vừa dịu nhẹ trong tiết tấu; hầu như không gây sốc cho độc giả yêu thơ, nhưng lại nằm sâu trong ký ức họ. Vậy thế mạnh tiềm ẩn trong Trần Ninh Hồ là ở sự hào hoa trong ngôn cách, hay sự dịu nhẹ trong tiết tấu? Hoặc là một bí ẩn thiên bẩm nào đó?
TNH: Cảm ơn bạn có lời khen tặng. Nhưng trong đôi lời khen tặng đó, tôi thích nhất câu “hầu như không gây sốc cho độc giả yêu thơ”. Gây sốc được cho bạn đọc không phải dễ, không phải ai muốn cũng được. Mà thực tình tôi cũng không muốn làm điều đó. Đấy có lẽ thuộc bản tính của những nhà ấn tượng chủ nghĩa. Mà sốc, hình như là một trạng thái nguy hiểm, đang khiến nhiều nhà y học phải đau đầu nghiên cứu cách chữa chạy, chống sốc!
Thế mạnh của tôi là “một bí ẩn thiên bẩm nào đó” ư? Vâng, có chứ. Đấy chính là khi xác định được vị thế của thi ca, nghệ thuật là sẻ chia, tâm sự, gợi mở... như tôi đã nói ở phần trên. Mà đã tâm sự với người ta thì trước tiên phải thực thà.
Ai đó đã từng ví cảm hứng sáng tạo “như đột nhiên ta bước tới Cửa Trời, và nhào vô Lòng Mẹ”. Cao rộng thế mà cũng gần gũi thế đấy.
VTXH: Còn những kỷ niệm đẹp trong đời thơ Trần Ninh Hồ?
TNH: Những kỷ niệm đẹp trong đời thơ của tôi ư? Nhiều lắm. Những kỷ niệm thật cũng có, mà những kỷ niệm... tưởng tượng ra cũng có.
Võ Thị Xuân Hà (Thực hiện)