Trong y học hiện đại, quế hoặc tinh dầu quế có tác dụng kích thích tiêu hoá, kích thích hô hấp và tuần hoàn huyết. Quế làm co mạch, làm tăng sự bài tiết và tăng nhu động ruột. Tinh dầu quế có tính sát trùng...
Chuyên gia về dinh dưỡng thuộc Trung tâm Nghiên cứu bệnh tiểu đường cũng cho biết: “Với liều nhỏ, quế không gây nguy hiểm gì. Quế rất có ích cho sức khoẻ và nó giúp ngăn chặn tình trạng béo phì”. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn khuyến cáo không nên lạm dụng quế. Với liều cao nó có thể có độc tính.
Trong y học cổ truyền quế có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, vào hai kinh can, thận.
Quế có tác dụng hành khí hoạt huyết ôn dương, dùng để điều trị các chứng đau thắt ngực ổn định và một số triệu chứng suy tim với liều lượng như sau: Nhục quế 12g, nghệ khô 40g. Tán bột, trộn đều. Mỗi lần uống 4g với nước ấm. Uống trước khi đi ngủ hoặc khi có triệu chứng đau.
Quế và một số bài thuốc điều trị
Thập toàn đại bổ: Trị các chứng hư yếu, mệt mỏi, choáng váng, mất ngủ, ăn uống kém. Thập toàn đại bổ là một cổ phương hợp thành bởi hai bài Tứ quân và Tứ vật, gia thêm 2 vị hoàng kỳ và nhục quế, lại có tác dụng đại bổ cả khí lẫn huyết nên được gọi là thập toàn.
Bài thuốc gồm: Nhân sâm 8g, xuyên khung 8g, phục linh 8g, đương quy 12g, bạch truật 12g, thục địa 20g, cam thảo 4g, bạch thược 12g, hoàng kỳ 12g, nhục quế 4g, gừng tươi 3lát và đại táo 3quả. Sắc uống lúc thuốc còn nóng.
Độc hoạt, tang ký sinh: Trị các chứng viêm khớp mạn tính, các chứng đau nhức tay chân, co duỗi khó khăn, do can - thận hư tổn, phong hàn thấp xâm nhiễm:
Bài thuốc gồm: Độc hoạt 12g, tang ký sinh 12g, thục địa 16g, tần giao 12g, đỗ trọng 12g, nhân sâm 8g, phòng phong 12g, ngưu tất 8g, phục linh 8g, cam thảo 6g, nhục quế 4g, bạch thược 12g, tế tân 4g, xuyên khung 8g, đương quy 12g
Thêm 3 lát gừng sống. Sắc uống trong ngày, uống lúc thuốc còn nóng.
Quế chi thang là bài thuốc cổ phương thông dụng chữa cảm mạo nhằm phát tán phong hàn.
Bài thuốc gồm: Quế chi 8g, cam thảo 6g, đại táo 3 quả, sinh khương 6g, thược dược 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống ấm.
Lưu ý: Quế có tính đại nhiệt nên không dùng trong các trường hợp có thai, các chứng xuất huyết, các trường hợp viêm nhiễm hoặc đang có thực nhiệt.