Quản lý tốt tiền ĐTĐ làm giảm nguy cơ mắc bệnh

17-07-2010 09:05 | Bệnh thường gặp
google news

Ở người lớn được chẩn đoán tiền ĐTĐ, việc thay đổi hành vi lối sống có thể phòng tránh và làm chậm quá trình bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2.

Ở người lớn được chẩn đoán tiền ĐTĐ, việc thay đổi hành vi lối sống có thể phòng tránh và làm chậm quá trình bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2. Kết quả từ Chương trình Phòng chống bệnh ĐTĐ của Cơ quan về dịch vụ Sức khỏe và con người Hoa Kỳ (HHS) tiến hành trên 3.000 người cho thấy giảm từ 5 - 7% kg cân nặng có thể làm giảm 58% nguy cơ bệnh tiến triển lên ĐTĐ type 2. Có thể giảm cân bằng cách ăn kiêng (giảm chất béo và lượng calo ăn vào) cũng như tập thể dục với mức độ vừa phải tối thiểu 150 phút một tuần (hầu hết những người tham gia nghiên cứu chọn đi bộ). Uống thuốc điều trị ĐTĐ gốc metformin cũng có thể làm chậm quá trình tiến triển của bệnh lên ĐTĐ type 2 ở một số người tham gia nghiên cứu. Các thuốc điều trị ĐTĐ khác không được khuyến cáo sử dụng trong giai đoạn tiền ĐTĐ.

Hướng dẫn mới về quản lý tiền ĐTĐ

Theo một tuyên bố đồng thuận do Hội Nội tiết lâm sàng Mỹ (AACE), quản lý tiền ĐTĐ bao gồm cả thay đổi hành vi lối sống và đặt mục tiêu điều trị huyết áp và mỡ máu như đối với người bệnh ĐTĐ.

Vì tiền ĐTĐ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và tiến triển thành ĐTĐ type 2, những hướng dẫn này cũng giúp phát hiện và điều trị bệnh ĐTĐ type 2 sớm hơn và hiệu quả hơn. Do đó hiện nay chưa có phác đồ điều trị bằng thuốc nào được Cơ quan Quản lý thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) duyệt, dùng cho người mắc tiền ĐTĐ  để ngăn ngừa bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2, hội đồng các chuyên gia đưa ra hướng dẫn điều trị tiền ĐTĐ bằng 2 hướng.

Mục tiêu đầu tiên là thay đổi hành vi một cách tích cực để ngăn ngừa bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2. Mục tiêu thứ hai là ngăn ngừa biến chứng tim mạch bằng cách điều trị bằng thuốc đối với những người mắc tiền ĐTĐ mà thay đổi lối sống không hiệu quả. Ngoài thuốc hạ đường huyết, có thể phải điều trị cả thuốc hạ huyết áp, hạ mỡ máu vào thời điểm thích hợp. Những người có yếu tố nguy cơ cao với mức đường huyết chạm ngưỡng của người bệnh ĐTĐ, huyết áp cao hoặc mỡ máu cao cần theo dõi các yếu tố nguy cơ chặt chẽ hơn.

Những câu hỏi cụ thể và những nhận xét xác đáng được đề cập đến trong tuyên bố đồng thuận:

Sự khác nhau giữa đường huyết bình thường, tiền ĐTĐ và ĐTĐ

Đường huyết được coi là bình thường khi đường huyết đói dưới 100mg/dL (5,6mmol/L) và đường huyết sau ăn 2h dưới 140mg/dL (7,8mmol/L). Được chẩn đoán ĐTĐ khi đường huyết đói lớn hơn hoặc bằng 126mg/dL (7mmol/L) và đường huyết sau ăn 2h lớn hơn hoặc bằng 200mg/dL (11,1mmol/L); khoảng cách giữa ĐTĐ và không ĐTĐ chưa được định nghĩa rõ ràng. Ở một số người có mức đường huyết chấp chới ngưỡng (đường huyết đói trong khoảng từ 100 - 125mg/dL; đường huyết sau ăn 2h từ 140 - 199mg/dL) cảnh báo nguy cơ có thể mắc bệnh ĐTĐ type 2, bệnh tim mạch và các biến chứng mạch máu nhỏ.

Những rủi ro lâm sàng người bệnh có thể mắc phải là gì?

Trong nghiên cứu DECODE, nguy cơ tử vong do tất cả các nguyên nhân tăng đáng kể nếu đường huyết 2h sau ăn tăng từ 95 lên 200mg/dL. Trong Chương trình Phòng chống bệnh ĐTĐ, khoảng 8% bệnh nhân rối loạn dung nạp đường huyết bị biến chứng võng mạc và 13% trong số họ sẽ bị mắc ĐTĐ. Nghiên cứu STOP NIDDM cho thấy nhóm chứng (placebo) với huyết áp cao (> 140/90mmHg) và tiền sử rối loạn dung nạp glucose 3 năm làm tăng nguy cơ bị các biến cố về tim mạch khoảng 5% trong vòng 4 năm. Nghiên cứu Honolulu về tim mạch (Honolulu Heart Study) cho thấy tăng đường huyết sau ăn thường đi kèm với tăng các ca đột tử trong 23 năm nghiên cứu.

Dự án ĐTĐ Quốc gia - Bệnh viện Nội tiết TW


Ý kiến của bạn