Ôi quảng trường! Ôi Madrid! Ôi Tây Ban Nha!
Với một người châu Á, lại đến từ một đất nước không có nhiều quảng trường, nơi mà quảng trường chủ yếu gắn với yếu tố lịch sử, chính trị, thì quảng trường ở châu Âu mang một thứ không khí hoàn toàn khác. Cái khác ấy khiến tôi rung động.
Ngày hôm đó, tôi quyết định đi lang thang, tự đi lạc quanh khu vực trung tâm, để tận hưởng sự thú vị của những bất ngờ. Và đột ngột:
Plazar Mayor hiện ra, già nua âm u ở cuối một cú rẽ trái đột ngột.
Ai mà nghĩ được, rẽ vào một con phố nhỏ lại xuất hiện một quảng trường cơ chứ. Quảng trường rất cổ, khá nhỏ và nhuốm màu u ám. Khắp quảng trường toàn các manocanh không đầu trong trang phục váy diềm nhiều tầng và bộ quần áo đấu sĩ bò tót quen thuộc. Nhưng chúng không có đầu! Cách chỗ tôi đứng hai bước chân, là một con dê. Chính xác hơn là một nghệ sĩ đường phố hóa thân vào một con dê. Con dê có đôi mắt vô hồn, toàn thân là dây kim tuyến đủ màu, cổ đeo chuông và khi nó giả bộ đang ăn, cái chuông kêu liên hồi tạo nên âm thanh vô cùng ma quái. Tại quảng trường già cỗi này, không gian mỗi nơi chốn đều có thứ không khí riêng. Càng lâu đời, thứ không khí ấy càng riêng biệt. Và không có cách nào khác để lý giải ngoài việc tìm hiểu.
Plaza Mayor xưa kia từng được người Tây Ban Nha tổ chức đấu bò; những con bò bị đâm cho tới chết ở ngay ở quảng trường này.
Tôi chọn một nhà hàng ngay trong Plazar Mayor để tiếp tục chiêm ngưỡng vẻ cổ quái trước mắt, dù biết, nhà hàng ở khu vực này thế nào cũng là “bẫy” du lịch. Nhưng mọi chuyện sẽ ổn, chỉ cần hỏi kỹ về giá cả. Tôi gọi cho mình một cốc Cappuccino.
Gã phục vụ râu quai nón xum xuê nhăn nhó vì nắng, nhíu mày trước câu hỏi của tôi về con dê ở góc quảng trường, lúc này đã lột bỏ cái đầu, lộ nguyên hình là một người phụ nữ đứng tuổi.
- Ồ, gã nhún vai nói: “Tôi không nghĩ nó có gì đáng sợ. Bạn có thể gặp con dê này ở nhiều điểm du lịch khác trong thành phố này”.
- “Nó có ý nghĩa biểu tượng gì không?” - Tôi tranh thủ hỏi, thực lòng tôi sẽ không mở nổi mồm ra hỏi chuyện người lạ, nhưng tranh thủ học hỏi là một điều hay.
- “Không, nó chẳng biểu tượng gì cho thành phố này cả. Có thể có tôi cũng chẳng biết”- Gã lại nhún vai, râu quai nón nhăn tít lại, rồi nhanh chóng quay đi.
Tôi quay mặt về hướng tòa nhà trông có vẻ cổ nhất, được bao phủ bởi những bức tranh tường tuyệt đẹp, toàn là chân dung khỏa thân, toàn thân hoặc bán thân, chen giữa khoảng tường trống giữa các ban công bé xíu. Tôi đếm được tổng cộng 237 cái ban công quay mặt vào quảng trường từ các tòa nhà nối liền nhau tạo thành một hình chữ nhật màu đỏ khép kín. Mấy cái ban công ở đây cũng không có cái không khí tán tỉnh hay buôn chuyện như ở Puerta de Sol. Tôi nghĩ rằng, việc có hàng trăm đôi mắt nhìn chòng chọc vào nhất cử nhất động thì chẳng thể dễ chịu được (ý là những đôi mắt trên những bức tranh tường). Thật kỳ dị!
Plaza Mayor đã từng là một cái chợ lớn trước khi được xây dựng thành quảng trường vào năm 1619, dưới thời Vua Filipe III.
Tôi uống hết cốc Cappuccino của mình khi nắng bắt đầu dội thẳng xuống từ đỉnh đầu, mấy cái máy phun sương đính ở những cái ô tô trong quán gồng mình hoạt động hết cỡ làm cả quảng trường như một cái chảo lửa đỏ rực mờ mịt khói.
Gã phục vụ có vẻ tươi tỉnh hơn khi tôi gọi thêm một chai nước suối. Gã tận tình mở nắp chai, rót nước ồng ộc vào cốc đá và nháy mắt đầy tinh nghịch.
- “Quảng trường này bản thân nó đáng sợ hơn nhiều”.
- “Vì sao?” - Tôi hỏi.
- “Chỗ này ấy à, người ta từng tổ chức đấu bò. Bạn biết đấu bò là gì không? Những con bò bị đâm cho tới chết ở ngay chỗ này này” - Anh ta chỉ ra chính giữa quảng trường - “Máu đã từng nhuộm đỏ mặt đất ở đây đấy”.
- “Đấu bò ở quảng trường á?” - Tôi thốt lên.
- “Cho tới tận thế kỷ XIX”.
Gã lại nháy mắt. Tôi hình dung đến cảnh anh ta tua đi tua lại câu chuyện này hàng nghìn lần và tận hưởng sự ngạc nhiên của du khách. Nhưng gã phục vụ ở quán café đã không kể hết, hoặc gã chỉ kể phần thú vị và ít kinh dị hơn của câu chuyện.
Plaza Mayor đã từng là một cái chợ lớn, trước khi được xây dựng thành quảng trường vào năm 1619, dưới thời Vua Filipe III, từng bị hỏa hoạn thiêu rụi đến 3 lần trong lịch sử. Ngoài là nơi để tổ chức các sự kiện hoàng gia, đám cưới hay lễ đăng quang, Plaza Mayor còn được sử dụng để hành quyết công khai. Tùy vào tội lỗi của kẻ tử tù mà người ta sẽ treo cổ, thiêu sống và đủ kiểu hành hình tàn bạo khác mà chỉ cần đọc một lần sẽ ám ảnh chẳng thể nào quên. Và lấp kín 237 cái ban công kia sẽ là những kẻ tò mò, sợ hãi, hả hê. Và cái quảng trường tôi cho là bé tý ấy có thể chứa tới 50.000 người.
Nơi tôi đã uống café là nơi máu bò tót và những kẻ tử tù đã lênh láng, là nơi thiên hạ đã từng thót tim trước những giờ khắc sinh tử trong cuộc đấu bò, là nơi người ta ca tụng tình yêu hay hy vọng vào một triều đại mới. Đó là lý do tại sao, tôi kết luận, quảng trường siêu già ấy, dù cũng có một lão già ngồi trên lưng một chú ngựa hiếu chiến như Puerta de Sol nhưng lại mang một không khí hoàn toàn ma quái. Đó cũng là bài học lịch sử sống động đầu tiên của tôi trong chuyến đi kỳ lạ đến Tây Ban Nha!