Hơn thế, nhiều nông dân tăng liều lượng gấp 3-5 lần cho phép. Ngoài gây lãng phí hàng nghìn tỉ đồng còn đeo gánh nặng cho môi trường, tăng tồn dư hóa chất trong nông sản. Hiện có các giải pháp được kì vọng giảm thiểu tình trạng này…
Tùy biến sử dụng và pha chế
Thông thường, người nông dân sau khi có thông báo của cơ quan khuyến nông về tình hình sâu bệnh và khuyến cáo về tên thuốc trừ sâu, liều lượng thì họ sẽ ra cửa hàng để mua thuốc trừ sâu. Đa số đều chỉ cần nói diện tích và tên bệnh, sâu, người bán sẽ tự lấy thuốc và hướng dẫn cách pha. Nhiều khi dịch bệnh nặng, người nông dân tự quyết định phun 2 lần, cách nhau từ 3-5 ngày theo cách mà người trong làng, xã truyền tai nhau.
Các nhà khoa học nông nghiệp cho biết, tâm lý trên là phổ biến trong nông dân. Nghiên cứu tại Đồng bằng sông Cửu Long do TS. Phạm Văn Toàn - Trưởng bộ môn Kỹ thuật môi trường, Đại học Cần Thơ - thực hiện cho thấy, hơn 85% số hộ được hỏi dùng thuốc để khống chế sâu bệnh, lý do chính là có hiệu quả tức thì. Người dân thường dùng liều cao hơn chỉ dẫn trên nhãn thuốc. Những ai chưa thấy hiệu quả, họ sẽ tự động tăng liều ở lần phun sau.
Lại có người được các hiệu thuốc thực vật hướng dẫn pha chế theo kinh nghiệm 2 - 3 loại thuốc với nhau, dù nhà sản xuất chỉ định dùng riêng từng loại. Đáng ra chỉ cần 1 loại đúng và đủ là được nên người dân mua 3 loại thuốc để phun vừa mất công, mất của lãng phí, lại gây hại vô cùng cho môi trường.
Tiếp xúc nhiều với nông dân, TS. Vũ Dương Quỳnh - phòng Hóa môi trường, Viện Môi trường nông nghiệp phân tích: “Nông dân muốn tiết kiệm thời gian và tiền bạc nên trộn 3-4 loại thuốc mà không biết rằng hiệu ứng của chúng khác nhau. Có thuốc được cây hấp thụ để sâu ăn phải, có loại phun trên bề mặt là sâu chết. Việc trộn lẫn chưa chắc đã hiệu quả bằng phun riêng”.
Mỗi năm hàng ngàn tỉ đồng tiền thuốc bvtv phun ra cánh đồng rất lãng phí.
Tăng cường kiến thức sử dụng và quản lý thuốc BVTV
Dựa trên các dữ liệu thực tế, ông Trương Quốc Tùng - nguyên Phó Chủ tịch thường trực Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam phân tích: Mô hình quản lý dịch hại tổng hợp trên lúa (IPM) áp dụng trên cả nước giúp giảm 60% lượng thuốc BVTV, 8% chi phí sản xuất và tăng 8% năng suất, 16% lợi nhuận. Điều tra tại Vĩnh Phúc cho thấy, việc thực hiện quy trình VietGAP - giảm 2-3 lần phun thuốc BVTV hoặc dùng thuốc sinh học - giúp lợi nhuận tăng từ 1,35 triệu đồng/ha (mô hình gia đình) đến 33 triệu/ha (mô hình cung cấp cho siêu thị).
Ông Tùng cho biết thêm, nếu các tiến bộ đó được áp dụng cho toàn bộ diện tích trồng trọt thâm canh cả nước (khoảng 10 triệu hécta) thì mỗi năm sẽ tiết kiệm được 30 triệu lượt phun thuốc, tương đương 30.000 tấn thuốc BVTV, bằng 40% số thuốc tiêu thụ hằng năm (khoảng 75.000 tấn), trị giá khoảng 210 triệu USD (trên 4.000 tỉ đồng). Đáng nói là hiệu quả sản xuất, lợi nhuận và môi trường đều rất lớn”.
Theo điều tra năm 2010 của Cục BVTV, mỗi thanh tra viên phụ trách 290 đơn vị sản xuất, buôn bán thuốc, 100.000ha trồng trọt và 100.000 nông hộ sử dụng thuốc BVTV. Lực lượng cán bộ quá mỏng, chỉ có thể kiểm tra tình hình sâu bệnh ngẫu nhiên và khuyến cáo. Nếu chọn phải nhà bị sâu bệnh nặng rồi khuyến cáo chung thì có nhà phun đúng dịp, có nhà chưa cần phun đã phun rồi, có nhà lại muộn quá.
Bởi vậy, các nhà quản lý nông nghiệp cho rằng, cần tích cực đẩy mạnh tăng số nông dân có kiến thức thông qua các chương trình đào tạo. Có kiến thức, người dân sẽ chọn đúng thuốc, sử dụng đúng nồng độ, liều lượng. Đến nay, tỉ lệ nông hộ áp dụng IPM chỉ đạt 15-20%.
Về vấn đề này, ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục Bảo vệ thực vật, Bộ NN&PTNT cho biết, từ năm 2014 đến nay, Bộ NN&PTNT đã triển khai đồng loạt các giải pháp kiểm soát và nâng cao nhận thức của người dân như kiểm soát chặt việc đăng ký thuốc BVTV; tăng tỉ trọng thuốc sinh học từ 18% lên 30%, thuốc thế hệ mới an toàn, thân thiện môi trường lên 40-60%; định kỳ 3 năm rà soát lại các sản phẩm, loại bỏ các thuốc nhiều nhược điểm...
Đặc biệt, Cục BVTV cũng đang triển khai đề án dịch vụ BVTV tại các địa phương, biến 130 triệu hộ nông dân thành 30.000 tổ, đội dịch vụ sử dụng thuốc với nhiệm vụ phun thuốc cho toàn xã, thay vì để mỗi gia đình tự phun, dễ lạm dụng. Ví dụ một xã có khoảng 10ha, tổ đội dịch vụ sẽ tính toán số thuốc đủ để phun cho 10ha đó, điều này giúp đảm bảo việc loại bỏ những lãng phí không cần thiết, dần tới xóa bỏ việc sử dụng tùy tiện, tràn lan thuốc BVTV như bấy lâu nay.