Biểu hiện của phù
Trường hợp bệnh nhân thấy tăng cân nhiều, mắt sưng húp, hay chân tay sưng to mọng nước thì có thể phát hiện dấu hiệu này dễ dàng. Hoặc khi bụng to căng đầy óc ách, tăng dần, các mạch máu trên da giãn ra, gân xanh nổi, khi đó ta nghĩ ngay đến phù cổ trướng. Nhưng cũng có những khi phù kín đáo, mi mắt chỉ thoáng nặng vào buổi sáng, hay bàn chân hơi sưng khi về chiều, lúc này rất khó phát hiện bằng khám xét thông thường mà phải áp dụng nhiều kĩ thuật phức tạp mới có thể khẳng định được bệnh nhân có phù hay không.
Biểu hiện lâm sàng của phù phụ thuộc vào tình trạng thừa nước, vị trí phù và nguyên nhân gây phù.
Phù nặng
Cân nặng tăng, giảm thể tích nước tiểu, sưng nề mắt mỗi khi buổi sáng thức dậy. Một biểu hiện nặng của phù là khó thở khi nằm nghiêng hay gắng sức. Điều này cho thấy phổi đang bị thừa nước nhiều, hoặc là phù ở các vùng nhu mô phổi hoặc nước tràn ngập màng phổi. Cũng có khi khó thở là do suy tim nặng.
Một biểu hiện của phù Quincke.
Phù trung bình
Kiểu phù: Phù trắng mềm, ấn lõm do bệnh lý thận; Phù đỏ đau trong suy tim; Phù kết hợp viêm da, teo cơ da do viêm tĩnh mạch mạn tính. Viêm bạch mạch không có dấu hiệu ấn lõm.
Vị trí phù: Phù do thận hay thấy nặng mặt, mi mắt và buổi sáng; Phù do tim mạch hay thấy ở các chi vào cuối ngày khi đi lại nhiều...; Phù lan tỏa toàn thân trong bệnh gan, thận, hệ thống; Phù một bên hay cả hai bên chân, phù tay, phù tại chỗ trong trường hợp tắc mạch máu hay bị chèn ép do khối u. Ngoài ra phù do dị ứng hay do côn trùng đốt cũng thường khu trú tại nơi bị tổn thương.
Đặc biệt chú ý, một số nơi phù có thể nguy hiểm như phổi, thanh quản, não.
Cách khởi phát: Xuất hiện cấp tính thường do viêm tắc tĩnh mạch, bạch mạch, do bị côn trùng đốt, do dùng thuốc, dị ứng... Ngay sau khi có tác nhân gây bệnh, vùng bị tổn thương nhanh chóng sưng to, nề lên, ấn vào có thế đau và cảm giác nước dưới tay.
Phù khởi phát từ từ do bệnh gan thận. Bệnh xuất hiện một thời gian, các cơ quan không duy trì được những chức năng bình thường là do biến đổi môi trường nội môi cũng như các hoạt động của tế bào, dịch sẽ thoát vào khoảng kẽ từ từ tăng dần gây phù.
Các nguyên nhân gây phù
Phù toàn thân
Xơ gan, do nhiều nguyên nhân như viêm gan mạn, ngộ độc gan, bệnh lý đường mật, gan mất khả năng tổng hợp albumin, tăng áp lực tĩnh mạch cửa gây ứ trệ tuần hoàn: Biểu hiện phù rất hay gặp, đặc biệt là tình trạng cổ trướng hay là tràn dịch trong ổ bụng. Số lượng rất nhiều có khi lên tới hàng chục lít dịch.
Hội chứng thận hư, các tổn thương tại cầu thận do nhiều bệnh lý gây ra, làm mất nhanh chóng với số lượng nhiều albumin qua đường nước tiểu, làm giảm áp lực keo trong máu và kéo theo hàng hoạt những biến loạn khác. Hậu quả là nước thoát ra khỏi thành mạch vào khoảng kẽ gây phù với nhiều mức độ từ nhẹ kín đáo đến nặng, toàn thân.
Suy tim cũng là nguyên nhân chính gây phù toàn thân. Khi tim giảm khả năng làm việc, lưu lượng tuần hoàn trong cơ thể không còn được duy trì ở mức bình thường, lượng dịch ứ trệ trong tuần hoàn sẽ bị thoát ra ngoài và gây phù.
Hội chứng tăng tính thấm thành mạch cấp tính
Hội chứng này hiếm gặp, sau một số bệnh gây xuất tiết đột ngột số lượng lớn dịch vào khoảng kẽ. Biểu hiện gồm khát, nôn, buồn nôn và đau cơ. Bệnh này thường hay phối hợp với rối loạn globulin đơn dòng IgG. Tổn thương mạch máu làm biến đổi cấu trúc và làm tính thấm của mạch máu tăng lên gây tăng thoát dịch vào khoảng kẽ.
Nguyên nhân phù một chân
Cấp tính: Huyết khối tĩnh mạch sâu, viêm bạch mạch, chấn thương gãy xương, côn trùng đốt, động vật cắn.
Bán cấp hoặc mạn tính: thoái hóa mạch máu (hội chứng Klippel - Trenaunay) chèn ép vùng khung chậu, khối u, hạch to, (hội chứng Cockett) động mạch đè lên tĩnh mạch chậu.
Phù vô căn tái phát
Nguyên nhân do cơ địa (thường gặp ở phụ nữ, cơ địa nhạy cảm). Biểu hiện phù vô căn tái phát thường phù vài ngày gần với chu kỳ kinh nguyệt kèm theo đau đầu, đau bụng, kích thích, tăng cân nhẹ. Nguyên nhân là do tăng tính thấm do tăng oestrogene, tăng aldosteron thứ phát.
Phù do thận hư.
Phù bạch mạch
Tiên phát: Bẩm sinh do thiểu sản bạch mạch hội chứng Nonne-Milroy hay hội chứng Meige Turne. Thường phối hợp với thừa thiếu ngón, dị dạng tim, còn ống thông động tĩnh mạch.
Thứ phát: Nhiễm khuẩn (liên cầu, nhiễm giun), ung thư tuyến tiền liệt, ung thư đường sinh dục, do điều trị tia xạ, sau phẫu thuật, chấn thương...
Phù chi trên: Nguyên nhân thường do huyết khối tĩnh mạch chi trên, phù bạch mạch, bệnh hệ thống (viêm da đa cơ), hội chứng Shulman, xơ cứng bì rải rác
Phù mặt, phù Quinke: Nguyên nhân phổ biến do suy thận, hội chứng thận hư, sán, phù dị ứng (thuốc, nhiễm trùng, thức ăn).
Phù áo khoác: Do chèn ép trung thất, bệnh huyết khối.
Nguyên nhân khác:
Phù còn có thể do thai nghén. Ngoài ra một số thuốc cũng có thể gây phù như thuốc điều trị tăng huyết áp: ức chế alpha,diazoxid, hydralazin, clonidin, nifedipin; Thuốc chống viêm như indomethacin, phenylbutazon, corticoid; Thuốc an thần kinh, barbituric.
Khi có dấu hiệu bị phù, cần đưa bệnh nhân đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được khám và điều trị bệnh kịp thời, tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.