Trầm cảm là một bệnh tâm thần rất phổ biến, chiếm tỷ lệ 9% ở nữ và 3% ở nam. Bệnh trầm cảm có căn nguyên là rối loạn về gen di truyền dẫn đến việc sản xuất quá ít chất dẫn truyền thần kinh serotonin trong não. Tuy nhiên, trầm cảm chịu sự ảnh hưởng rất nhiều của các yếu tố môi trường, tình trạng bệnh cơ thể và tình trạng có thai, sinh đẻ ở phụ nữ.
Ảnh minh họa (nguồn Internet) |
Tuy nhiên, bác sĩ và bệnh nhân đều “ngại” dùng thuốc chống trầm cảm trong thời gian mang thai và cho con bú vì sợ thuốc sẽ ảnh hưởng đến thai nhi và em bé. Như vậy, chúng ta phải cân nhắc giữa lợi hại của việc dùng thuốc chống trầm cảm cho từng bệnh nhân cụ thể, nghĩa là chỉ định chính xác đối tượng nào và khi nào phải dùng thuốc chống trầm cảm. Có một vài gợi ý sau cho các trường hợp phải dùng thuốc chống trầm cảm: mất ngủ liên tục trong 3 ngày trở lên; luôn lo lắng quá mức một cách vô cớ; ăn uống kém, sút cân hoặc không tăng cân; buồn rầu, bi quan, chán nản; có ý định tự sát.
Khi sử dụng các thuốc chống trầm cảm, cần lựa chọn thuốc trên các nguyên tắc sau: thuốc ít ảnh hưởng đến thai nhi và em bé; thuốc có hiệu quả điều trị trầm cảm tốt; sử dụng đơn giản (1 lần/ngày); cố gắng dùng liều thấp nhất có thể.
Thực ra, các thuốc chống trầm cảm đa vòng và nhóm SSRI rất an toàn cho phụ nữ có thai. Các thử nghiệm lâm sàng trên nhóm lớn các phụ nữ có thai ở Mỹ, châu Âu đối với sertraline, fluoxetine… đã chứng minh rằng các thuốc trên rất an toàn, chưa ghi nhận một tác dụng nào ảnh hưởng tới thai nhi và em bé. Có tác giả đã khẳng định rằng, mọi lưu ý đối với các thuốc chống trầm cảm thế hệ mới cho phụ nữ có thai chủ yếu là ở 3 tháng đầu thai kỳ mà thôi.
Các thuốc sau có thể sử dụng cho phụ nữ có thai tuy nhiên phải tuyệt đối tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa: sertraline (zoloft, serenata, zosert, utralene…) viên 50mg và 100mg; fluoxetine (prozac, oxeflu, oxedep) viên 20mg; mirtazapine (remeron, mirtaz, tzap, tazimed) viên 30mg; paroxetine (pharmapar, wicky) viên 20mg.
TS.Bùi Quang Huy (Chủ nhiệm Khoa Tâm thần - BV 103)