Được gọi là viêm phế quản mạn tính khi một người bị ho và khạc đờm liên tục hoặc tái phát theo từng đợt, mối đợt từ một đến vài tuần, mỗi năm có khi xảy ra 5 - 6 đợt. Hoặc ho, khạc đờm ít nhất là 3 tháng trong một năm và có ít nhất là 2 năm liền nhau, sau khi đã loại trừ các bệnh như: lao phổi, giãn phế quản, hen suyễn, ung thư phế quản hoặc suy tim.
Tại sao bị viêm phế quản mạn tính?
Có nhiều nguyên nhân dẫn đễn viêm phế quản mạn tính. Trước hết, phải kể đến viêm phế quản cấp không được điều trị dứt điểm sẽ chuyển thành viêm phế quản mạn. Viêm phế quản cấp chủ yếu là do vi sinh vật (vi khuẩn, virút, ký sinh trùng). Thứ đến là do tổn thường kéo dài lớp nhầy niêm mạc phế quản bởi các tác nhân độc hại có trong môi trường sống, nhất là môi trường ô nhiễm bởi khói (khói công nghiệp, khói bếp, khói thuốc), nhiều bụi (bụi công nghiệp, bụi bẩn của môi trường sống), ẩm ướt, ẩm thấp, chật chội. Môi trường làm việc hiện tại hoặc trong tiền sử (người đã nghỉ hưu) có liên quan tới viêm phế quản mạn tính thường gặp ở các công nhân hầm lò, công nhân vệ sinh môi trường, công nhân ở các khu công nghiệp, những người sống ở vùng công nghiệp hoặc gần khu công nghiệp. Môi trường làm việc cũng có khả năng hít phải khí độc, hóa chất (phòng thí nghiệm, bể chứa hoóc-môn ướp xác…) làm tổn thương phế quản từ từ, kéo đài dẫn đến viêm phế quản mạn tính nếu không có bảo hộ lao động tốt. Làm việc trong môi trường có nguy cơ cao gây viêm phế quản, nếu nghiện thuốc (thuốc lá, thuốc lào), nguy cơ mắc bệnh viêm phế quản mạn tính càng tăng lên. Theo các chuyên gia, có tới 90% số bệnh nhân viêm phế quản mạn tính có hút thuốc lá, thuốc lào, bệnh thường xảy ra sau 50 tuổi do sự tích tụ của thuốc lá, thuốc lào và nếu hút thuốc nhiều từ khi còn trẻ, tỉ lệ viêm phế quản mạn tính tăng lên gấp đôi so với nhóm không hút thuốc.
Ngoài ra, viêm phế quản mạn tính ở NCT còn có thể do di truyền, hoặc do tuổi tác cao cho nên sức đề kháng kém hoặc do thời tiết chuyển mùa làm tái phát viêm phế quản.
Triệu chứng chính
Tùy theo từng giai đoạn tiến triển của bệnh mà có các biểu hiện lâm sàng khác nhau, nếu chỉ viêm phế quản mạn tính đơn thuần, triệu chứng chính là ho và khạc đờm, nhiều nhất là vào buổi sáng. Đờm nhầy, trong, dính, vàng đục (khi có bội nhiễm). Ho xảy ra từng đợt, mỗi đợt kéo dài từ một đến vài tuần, mỗi năm có khi xảy ra ho đến 5 - 6 lần và thường tăng vào thời tiết chuyển mùa, nhất là lạnh, ẩm ướt. Khối lượng đờm do ho, khạc ra trong một ngày có khi lên tới 100ml hoặc nhiều hơn thế. Bệnh càng kéo dài, ho càng nhiều, đờm ngày càng đặc hơn và đổi màu (thường là màu vàng).
Nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng, bệnh sẽ chuyển sang giai đoạn viêm phế quản mạn tính tắc nghẽn, vì vậy, người bệnh sẽ bị khó thở, khò khè (do niêm mạc phế quản phù nề, tăng tiết nhiều). Đặc biệt, các đợt bùng phát của viêm phế quản mạn tính thường xảy ra ở người cao tuổi, yếu, nên dễ bội nhiễm vi sinh vật, vì vậy, có sốt, ho, khạc đờm có mủ và khó thở, có thể tử vong do suy hô hấp cấp.
Để phòng bệnh, NCT cần giữ gìn, vệ sinh họng miệng để không bị mắc các bệnh về đường hô hấp bằng cách đánh răng, súc họng hàng ngày sau khi ăn, trước và sau khi ngủ dậy, đặc biệt không hút thuốc. Mùa lạnh cần tránh cảm lạnh, mặc ấm, ngủ ở buồng không có gió lùa, đủ chăn, đệm và cần tắm nước ấm. Nếu nhà ở chật chội, khi đun bếp than, bếp củi, rơm, rạ cần mở cửa cho thoáng, tốt hơn là dùng bếp ít khói để đun rơm, rạ, củi (ở nông thôn).
Biến chứng
Nếu không được điều trị dứt điểm, viêm phế quản mạn tính sẽ chuyển thành bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD: Chronic Obstructive Pulmonary Disease). Ho ngày càng tăng, số lượng đờm tăng dần và bệnh càng nặng hơn, mỗi đợt ho sẽ kéo dài hơn vài tuần và số lần ho cũng tăng lên một cách đáng kể. Người bệnh thường khạc đờm nhầy mủ từng đợt do bội nhiễm hoặc kèm theo khó thở do mắc thêm chứng co thắt phế quản. Bệnh càng để lâu, càng nặng, sự thiếu hụt không khí càng nhiều, gây rối loạn chức năng hô hấp một cách đáng kể. Do đó, người bệnh luôn thiếu dưỡng khí gây nên mệt mỏi, sụt cân, ảnh hưởng xấu đến nhiều chức năng khác của cơ thể, nhất là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh trung ương (tim đập nhanh, mệt mỏi, buồn ngủ…). Bội nhiễm có thể dẫn đến viêm phổi thùy, áp-xe phổi, lao phổi. Hậu quả của viêm phế quản mạn tính có thể dẫn tới bệnh giãn phế quản, tâm phế mạn, khí phế thũng gây suy hô hấp cấp, suy tim.
Nguyên tắc điều trị như thế nào?
Khi nghi bị viêm phế quản cấp cần đi khám bệnh ngay để được điều trị dứt điểm tránh hiện tượng tự mua thuốc để điều trị khi không có kiến thức về y học. Trong trường hợp bệnh đã chuyển thành mạn tính cần cần được khám bệnh và điều trị tích cực không để bệnh chuyển sang giai đoạn tắc nghẽn hoặc nhầy mủ. Nguyên tắc điều trị, tùy theo từng giai đoạn có thể phải dùng thuốc long đờm, thuốc giãn phế quản, đồng thời chống viêm xuất tiết và kháng sinh. Dùng thuốc gì, liều lượng, cách thức dùng là do bác sĩ điều trị chỉ định, người bệnh nên tuân theo.