Đau nửa đầu còn gọi là hội chứng Migraine do có nhiều triệu chứng tập hợp lại thành hội chứng. Thông thường, đau đầu ở một hoặc cả hai bên thái dương. Đau, nhức dữ dội kéo dài có khi vài ba tiếng, có khi cơn đau kéo dài vài ba ngày. Đặc điểm nổi bật nhất của bệnh đau nửa đầu là rất dễ tái phát và mỗi lần tái phát, đau nửa đầu còn có thể gây rối loạn tiêu hóa, tiểu tiện, càng gây khó chịu cho người bệnh.
Nguyên nhân nào dẫn đến đau nửa đầu?
Đau nửa đầu có thể gặp ở trẻ em, trong đó trẻ em lứa tuổi học đường gặp nhiều hơn trẻ ít tuổi và trẻ em gái bị nhiều hơn trẻ em trai. Trong số người đau nửa đầu, phụ nữ chiếm tỷ lệ 75% và gặp chủ yếu ở tuổi trung niên (35 - 45 tuổi). Cho đến nay, vẫn chưa biết một cách chắc chắn về căn nguyên của bệnh đau nửa đầu. Tuy vậy, theo các tài liệu, đau nửa đầu là do sự rối loạn vận mạch ở não hoặc do thiếu hụt lượng serotoin trong máu gây rối loạn tuần hoàn não và làm giảm lượng máu lưu thông về não bộ gây nên đau nửa đầu. Bên cạnh đó, có một số yếu tố thường gặp làm tăng nguy cơ bệnh đau nửa đầu, đó là bệnh nhiễm trùng mạn tính (viêm xoang, bệnh viêm tai, mũi, họng, mắt, sâu răng). Hoặc gặp ở một số người tăng huyết áp hoặc huyết áp thấp hoặc do thoái hóa đốt sống cổ, khô khớp đốt sống cổ hoặc do chấn thương tâm lý (stress liên tục).
Ngoài ra, các yếu tố gây dị ứng (histamine), người nghiện thuốc (thuốc lá, thuốc lào), nghiện rượu hoặc người béo phì hoặc do rối loạn giấc ngủ hoặc do tác dụng phụ của một số loại thuốc cũng có thể gây cơn đau nửa đầu.
Với trẻ em, đau nửa đầu có thể xảy ra ở lứa tuổi dậy thì do ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý, cảm xúc, nhất là trẻ em gái.
Bên cạnh đó, bệnh đau nửa đầu cũng có thể do yếu tố gia đình (mẹ bị đau nửa đầu, con gái cũng bị).
Bệnh lý tai mũi họng có thể là nguyên nhân dẫn đến đau nửa đầu.
Đặc điểm của bệnh đau nửa đầu
Thông thường, đau đầu ở một hoặc cả hai bên thái dương. Đau, nhức dữ dội kéo dài có khi vài ba tiếng, có khi cơn đau kéo dài vài ba ngày. Cơn đau đầu có khi giật giật kiểu như nhịp đập của mạch máu. Kèm theo đau nửa đầu là buồn nôn, nôn, có thể gây chóng mặt, mệt mỏi và hay cáu gắt vô cớ. Ánh sáng chói chang hoặc tiếng ồn ào ở cường độ lớn (tiếng nhạc, tiếng trống rền vang...) hoặc gặp lại sự cố gây khó chịu (bất đồng quan điểm, xích mích với bạn bè, gia đình…) cơn đau nửa đầu có thể tái phát. Đặc điểm nổi bật nhất của bệnh đau nửa đầu là rất dễ tái phát và mỗi lần tái phát, ngoài đau nửa đầu có thể gây rối loạn tiêu hoá, tiểu tiện càng gây khó chịu cho người bệnh.
Một số người, mỗi lần cơn đau nửa đầu tái phát có thể có dấu hiệu báo trước (tim đập mạnh, nhanh, hoa mắt, chóng mặt). Riêng phụ nữ ở tuổi thanh, trung niên bệnh hay tái phát vào lúc đang có chu kỳ kinh nguyệt hoặc lúc áp lực công việc, gia đình hoặc chấn thương tâm lý hoặc do thay đổi thời tiết.
Đặc biệt, với trẻ em có thể mắc chứng đau nửa đầu và có thể gây liệt đột ngột (hạn hữu) và rối loạn cảm giác. Đi kèm với liệt nửa người là đau nửa đầu phía đối diện với bên liệt. Các triệu chứng này có thể chỉ diễn ra trong vòng vài giờ rồi khỏi hoàn toàn mà không để lại di chứng. Ngoài ra, còn có thể kèm theo đột ngột đau bụng dữ dội ở vùng thượng vị, quanh rốn, cảm giác buồn nôn, nôn và có thể đi ngoài phân lỏng diễn ra trong vòng vài giờ rối hết. Bệnh có thể tái phát nhiều lần làm cho phụ huynh lo lắng và khi đưa trẻ đi khám bệnh mới biết cháu gặp chứng bệnh đau nửa đầu.
Điều trị như thế nào?
Khi bị đau nửa đầu, tốt nhất là đi khám bệnh để được điều trị dứt điểm ngay từ đầu. Người bệnh không nên tự mua thuốc điều trị cho mình khi không có chuyên môn về y học, bởi vì thuốc điều trị bệnh này có một số tác dụng phụ. Người bệnh cần kiên trì điều trị theo chỉ định của bác sĩ khám bệnh cho mình, không nên nóng vội, không nên điều trị ngắt quãng hoặc tự động thay đổi liều lượng thuốc hoặc thay thuốc.
Điều quan trọng nhất là loại bỏ dần dần các yếu tố gây đau nửa đầu là một trong các biện pháp giúp hạn chế bệnh tái phát. Những người khi mắc một trong các bệnh nhiễm khuẩn về tai mũi họng, xoang hoặc răng (ngay cả trẻ em) hoặc thoái hóa cột sống cổ hoặc bệnh tăng hoặc huyết áp thấp cần được khám bệnh định kỳ để được điểu trị dứt điểm không để bệnh thành mạn tính.
Nên có chế độ ăn thích hợp và vận động cơ thể thường xuyên (đi bộ, bơi, chơi cầu lông, tập các động tác thể dục nhẹ nhàng…) để làm cho máu lưu thông tốt hơn (nhất là máu lên não bộ), chống béo phì. Cần bỏ thuốc (thuốc lá, thuốc lào) và bỏ rượu để tránh bệnh tái phát.