Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh mạn tính, trong đó có người mắc cả bệnh hen và bệnh tim mạch. Chính vì vậy, xem xét mối quan hệ giữa hen và bệnh tim mạch sẽ có ý nghĩa lớn trong chăm sóc bệnh nhân hen.
Yếu tố nguy cơ gây bệnh hen và bệnh tim mạch
Ô nhiễm không khí: Các chất gây ô nhiễm không khí đã được chứng minh là làm tăng bệnh tim mạch và đồng thời ảnh hưởng xấu đến hen.Thành phần chính của khói bụi có thể làm tăng nguy cơ bị hen. Những người sinh sống hoặc lớn lên ở đô thị có nguy cơ hen cao hơn những người sống ở nông thôn. Các yếu tố như: phấn hoa, bụi và gián, nấm mốc, lông vật nuôi, thay đổi thời tiết (đặc biệt là không khí lạnh)… là những yếu tố nguy cơ cao gây bệnh hen. Nhạy cảm với các tác nhân dị ứng thường là yếu tố dự báo chính xác khả năng mắc bệnh hen. Tác nhân gây dị ứng có thể là bụi, lông động vật, nấm mốc hoặc các hóa chất độc hại. Các tác nhân dị ứng có thể làm các cơn hen suyễn nặng hơn nếu vẫn tiếp xúc.
Bệnh nhân hen mạn tính tăng nguy cơ mắc bệnh tim.
Các nghiên cứu trước đây chưa kết luận gì được về vai trò của ô nhiễm với bệnh tim mạch. Trong thập kỷ vừa qua, các nghiên cứu dịch tễ tiến hành trên toàn thế giới đã ghi nhận sự tăng nguy cơ các biến cố tim mạch bao gồm tử vong do tim và đột quỵ một cách hằng định khi bị phơi nhiễm ngắn hoặc dài hạn với nồng độ ngày thường các chất gây ô nhiễm, đặc biệt là các phần tử nhỏ.
Khói thuốc lá: Khói thuốc lá có trên 4.000 hóa chất có khả năng gây hại cho cơ thể. Thuốc lá làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch trên 2 lần. Khói thuốc gây kích thích đối với khí quản. Người hút thuốc thường sẽ có nguy cơ cao bị hen. Người hen hút thuốc lá dẫn đến bệnh hen sẽ nặng hơn với phản ứng viêm của khí phế quản, liên quan chủ yếu đến bạch cầu đa nhân trung tính (khác với những bệnh nhân hen khác liên quan chủ yếu tăng bạch cầu ái toan) và tắc nghẽn ít hồi phục hơn.
Nitrogen dioxide: Nitrogen dioxide là một chất gây ô nhiễm làm tăng nguy cơ cả bệnh hen lẫn bệnh tim. NO2 được tìm thấy trong tầng ozone, nhưng cũng có nồng độ cao ở trong nhà, mà thường nhất là khi sử dụng bếp ga và các lò sưởi đun bằng dầu. Khi phơi nhiễm với NO2 tăng, nguy cơ bệnh tim tăng, đặc biệt trên bệnh nhân hen. Chức năng hô hấp ở bệnh nhân hen đặc biệt dễ tổn thương khi tiếp xúc với NO2 cấp; trong khi ở người bình thường thì chức năng hô hấp lại không biến đổi.
Mối liên hệ trực tiếp giữa hen và bệnh tim
Nhiều nghiên cứu đã khẳng định: bệnh nhân hen không hút thuốc tăng 33% nguy cơ bệnh tim mạch. Ở những người bệnh hen có hút thuốc, nguy cơ này tăng cao hơn nhiều. Đồng thời, bệnh nhân hen dai dẳng tăng 60% nguy cơ biến cố tim mạch (nhồi máu cơ tim, ngưng tim được hồi sinh, cơn đau thắt ngực, đột quỵ và tử vong do bệnh tim mạch/đột quỵ) khi so sánh với người không hen. 37% bệnh nhân hen có tăng huyết áp. Trong cơn hen cấp nặng, tăng huyết áp thường xảy ra. Hen làm tăng nguy cơ bệnh mạch vành 1,4 lần, tai biến mạch máu não 1,2 lần và suy tim 2,1 lần.
Lý giải cho những kết luận trên là: bệnh tim và hen đều là những bệnh lý viêm. Chỉ số C-reactive protein (CRP) và fibrinogen tăng đáng kể ở bệnh nhân hen dai dẳng, gợi ý một liên kết giữa các quá trình viêm trong hen và bệnh tim mạch. Các cytokine khác (các protein hay glycoprotein không phải kháng thể được sản xuất và phóng thích bởi các tế bào bạch cầu viêm và một số tế bào khác không phải bạch cầu) thường hay gia tăng trong hen cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Trong cơn hen, bệnh nhân thường có tăng huyết áp, mạch nhanh do cường giao cảm, thiếu ôxy máu, toan chuyển hóa do acid lactic… Hội chứng vành cấp và tai biến mạch máu não tăng ở bệnh nhân hen so với bệnh nhân không hen. Các biến cố tim mạch này tăng hơn khi hen không kiểm soát (có nhiều cơn và/hoặc nhập viện do hen).
Theo dõi bệnh nhân hen có nhiều nguy cơ mắc bệnh tim mạch
Chẩn đoán bệnh tim mạch trên bệnh nhân hen cần lưu ý một số đặc điểm sau. Các triệu chứng hen bao gồm ho, khó thở, nặng ngực và khò khè. Đau ngực (mà không phải là nặng ngực) không gợi ý hen mà gợi ý bệnh tim thiếu máu cục bộ hoặc các bệnh lý lồng ngực gây đau ngực khác. Ho trên bệnh nhân hen có rất nhiều nguyên nhân. Nhưng một khi ho mạn cần loại trừ do thuốc ức chế men chuyển hay được dùng trên bệnh nhân tim mạch. Khó thở và ngay cả khò khè có thể là triệu chứng của suy tim. Vì vậy nếu bệnh nhân có nhiều triệu chứng của hen, các triệu chứng này có tính thay đổi thì có thể quy kết do hen và có thể điều trị thử bằng thuốc giãn phế quản và/hoặc corticoid. Nếu bệnh nhân chỉ có đơn lẻ các triệu chứng nêu trên mà lại không có tính thay đổi và/hoặc không đáp ứng với thuốc giãn phế quản thì cần lưu ý đến các bệnh tim mạch phổ biến ở người hen hơn người không mắc hen. Các xét nghiệm tim mạch vẫn rất hữu ích trong chẩn đoán bệnh tim trên người mắc hen trừ khi làm trong cơn cấp. Ví dụ sự đánh giá bệnh tim qua siêu âm tim có thể khó khăn hơn trong cơn cấp do ứ khí trong phổi.
Dự phòng và điều trị
Bệnh nhân bị hen dai dẳng (phải dùng thuốc kiểm soát hen hằng ngày) dễ gia tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Nhưng thay vì lo lắng là hen có thể làm gia tăng tim mạch, bệnh nhân hen nên lưu ý dự phòng và điều trị bệnh tim bằng cách điều chỉnh ngay các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch. Trước tiên là thay đổi lối sống như: bỏ thuốc lá, tăng cường vận động… Điều trị các bệnh lý đang mắc phải như: tăng huyết áp, thừa cân/béo phì, rối loạn lipid máu, đái tháo đường…
Phải kiểm soát bệnh hen tốt để tránh làm nặng thêm các bệnh lý tim mạch. Kiểm soát hen bằng những thuốc kiểm soát được khuyến cáo và dùng theo chỉ định của bác sĩ là an toàn và cần thiết. Hoạt động thể lực đều đặn giúp duy trì sức khỏe tốt không những cho bệnh nhân hen mà còn cho bệnh nhân tim mạch.
Với người bệnh mắc đồng thời cả bệnh hen và bệnh tim mạch và phải dùng thuốc chữa cả hai bệnh này thì cần thận trọng, vì một số thuốc chữa hen ảnh hưởng tới bệnh tim mạch và một số thuốc chữa tim mạch lại làm bệnh hen nặng hơn. Do đó cần theo dõi sát diễn biến của bệnh để thông báo cho bác sĩ kịp thời nhất.