Thực trạng mù lòa hiện nay
Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu người mù và thị lực kém. Trên 80% tỷ lệ người mù ở Việt Nam có thể phòng, chữa được. Các nguyên nhân gây mù chính hiện nay qua điều tra cho thấy đục thể thủy tinh vẫn là nguyên nhân chủ yếu (chiếm tới 66,1%), tiếp đó là các bệnh lý đáy mắt, bệnh glôcôm, tật khúc xạ...
Đáng chú ý, tật khúc xạ (cận thị, viễn thị, loạn thị) đang ngày càng phổ biến trong thanh thiếu niên, với tỷ lệ mắc khoảng 15-20% ở học sinh nông thôn, 30-40% ở thành phố. Nếu tính riêng nhóm trẻ từ 6 - 15 tuổi (lứa tuổi cần ưu tiên được chỉnh kính) cả nước có khoảng gần 15.000.000 em, với tỷ lệ mắc các tật khúc xạ khoảng 20%, thì Việt Nam ước tính gần 3 triệu em mắc tật khúc xạ cần chỉnh kính, trong đó có tới 2/3 bị cận thị. Việc khám và cấp kính cho trẻ em mắc tật khúc xạ (cận, viễn, loạn thị) lại là một trong những biện pháp can thiệp rẻ tiền và có hiệu quả nhất để giảm tỷ lệ mù lòa, tuy nhiên khi triển khai các chương trình ở cộng đồng gặp nhiều rào cản từ nhận thức, cơ sở vật chất và kinh phí... để duy trì và thực hiện chỉnh kính cho các em học sinh.
BV Mắt Trung ương thường xuyên tổ chức các đợt phẫu thuật lưu động chữa bệnh cho nhân dân và nâng cao năng lực chuyên môn cho các tuyến dưới. Ảnh: PV
Nhiều thách thức mới
Thiếu nhân lực ở tuyến cơ sở, thiếu trang thiết bị nhãn khoa, kéo theo thiếu các dịch vụ nhãn khoa, không đáp ứng được các chương trình chăm sóc mắt cộng đồng... Do đó người dân khó tiếp cận các dịch vụ chăm sóc mắt, phải dồn lên các cơ sở chăm mắt tuyến trên, sinh ra thực trạng quá tải bệnh viện. Đối với người nghèo thì điều kiện đi lại, kinh phí khiến việc khám mắt lại càng khó khăn hơn.
Hàng trăm cơ sở y tế tuyến huyện thiếu nhân lực, các trang thiết bị khám sơ sài, khó đáp ứng công tác chăm sóc mắt cho người dân. Các chương trình phòng chống mù lòa hiện nay mới dừng lại ở các đợt khám, phẫu thuật lưu động và các hoạt động truyền thông chăm sóc mắt.
Đặc biệt, sự chủ quan và tùy tiện tra nhỏ thuốc của người bệnh hay những quan niệm sai về việc trì hoãn đeo kính khi mắc tật khúc xạ, không thăm khám mắt định kỳ, tự chữa mắt theo các phương pháp và quan niệm dân gian...
Giải pháp nào thực hiện mục tiêu thị giác?
Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quốc gia PCML giai đoạn 2020 và tầm nhìn 2030, với mục tiêu chung “tăng cường cơ hội tiếp cận của người dân với dịch vụ dự phòng, phát hiện sớm, điều trị và phục hồi chức năng mắt, giảm tỷ lệ các bệnh mù lòa có thể phòng chống được, phấn đấu nhằm loại trừ các nguyên nhân chính gây mù lòa cho mọi người dân, đặc biệt hàng triệu người mù quyền được nhìn thấy như khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về mục tiêu thị giác 2020”.
Theo đó, mục tiêu cụ thể 2020, Việt Nam phấn đấu giảm tỷ lệ mù lòa xuống dưới 4,5 người/1.000 dân, trong đó giảm tỷ lệ mùa lòa ở người trên 50 tuổi xuống dưới 16 người/1.000 dân; Tăng tỷ lệ phẫu thuật đục thủy tinh thể trên 2,5 người/1.000 dân; Tăng tỷ lệ người bệnh đái tháo đường được khám và theo dõi bệnh lý về mắt đạt 45%; Tăng tỷ lệ tật khúc xạ học đường được khám, phát hiện sớm, cung cấp dịch vụ khúc xạ và chỉnh kính tật khúc xạ đạt trên 70%. Bên cạnh đó thực hiện đồng bộ các giải pháp: Nâng cao nhận thức cộng đồng và củng cố mạng lưới về chăm sóc mắt; Xây dựng và hoàn thiện các chính sách PCML; Kiểm soát các nguyên nhân chính gây mù lòa; Tăng cường chuyển giao kỹ thuật, nâng cao năng lực chuyên môn cho tuyến dưới; Hợp tác quốc tế huy động các nguồn lực cũng như kinh nghiệm trong PCML....
Tuy nhiên, công tác phòng chống mù lòa là trách nhiệm của toàn xã hội, không chỉ riêng ngành mắt mà đòi hỏi nhận thức và quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự chủ động phối hợp của các các tổ chức đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân với nhiều hình thức đa dạng hơn, quy mô hơn... Bên cạnh đó, ngành mắt Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp về chuyên môn kỹ thuật, đào tạo cán bộ nhãn khoa, phẫu thuật viên; Tích cực chuyển giao khoa học kỹ thuật cho tuyến dưới; Tham mưu đề xuất với Bộ Y tế, Chính phủ ban hành những chính sách, các giải pháp thực hiện, huy động các nguồn lực xã hội, tăng cường và đầu tư trang thiết bị nhãn khoa cho các tuyến, đặc biệt tuyến huyện và các bệnh viện khu vực.