Phòng chống loạn thị tuổi học đường

09-08-2014 07:00 | Y học 360
google news

SKĐS - Loạn thị là một loại tật khúc xạ khá phổ biến. Loạn thị thường xuất hiện lúc mới sinh và có thể xảy ra kết hợp với cận thị hoặc viễn thị.

Loạn thị là một loại tật khúc xạ khá phổ biến. Loạn thị thường xuất hiện lúc mới sinh và có thể xảy ra kết hợp với cận thị hoặc viễn thị. Loạn thị cộng với cận thị thành tật cận loạn - đây là chứng bệnh thường gặp ở lứa tuổi học đường. Loạn thị tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng gây ra những bất tiện, khó khăn trong cuộc sống.

Lời khuyên của thầy thuốc: Loạn thị nói riêng và mắt có tật khúc xạ trong nói chung là mắt có thị lực kém. Trẻ bị tật này sẽ có một số bất tiện trong sinh hoạt, học tập. Trẻ sẽ thường xuyên phải nheo mắt, nghiêng đầu, vẹo cổ khi nhìn, đôi khi có thể có nhức đầu, nhức mắt... Trong lớp học, trẻ không nhìn rõ trên bảng, hay cúi đầu lại gần sách để nhìn cho rõ, hay chép nhầm bài, đọc nhầm chữ, ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Vì vậy, điều quan trọng là phụ huynh và cô giáo cần phát hiện sớm chứng loạn thị ở trẻ, đưa trẻ đi khám mắt thường xuyên để phát hiện và có phương hướng điều trị thích hợp.

Khoảng 30% trẻ em có loạn thị ở mức độ khác nhau. Loạn thị xảy ra khi mặt trước của mắt (giác mạc) hoặc ống kính bên trong mắt có một độ cong bề mặt hơi khác nhau theo một hướng khác. Thay vì ngay thẳng và mịn trong tất cả các hướng, bề mặt có thể có một số khu vực cong hoặc dốc hơn. Ở mắt bình thường, các tia hình ảnh sau khi đi qua giác mạc thì được hội tụ ở một điểm trên võng mạc. Nhưng ở mắt loạn thị, các tia hình ảnh lại được hội tụ ở nhiều điểm trên võng mạc khiến cho người loạn thị thấy hình ảnh nhòe, không rõ. Loạn thị khi nhẹ không nguy hiểm và không ảnh hưởng đến thị lực. Trong trường hợp loạn thị cao (từ 1,5 D trở lên), thị lực sẽ giảm và có thể làm cho mắt trẻ nhược thị nếu không được chỉnh kính và tập luyện. Khác biệt về bán kính cong của giác mạc hoặc thể thủy tinh gây loạn thị thường xuất hiện từ khi sinh và không liên quan đến thói quen và mức độ sử dụng mắt của trẻ. Mức độ loạn thị cũng thường không thay đổi (tăng lên hoặc giảm đi) theo thời gian như cận thị hoặc viễn thị. Trong hầu hết trường hợp, loạn thị từ lúc mới sinh. Đôi khi loạn thị phát triển sau khi một chấn thương mắt, bệnh tật hoặc phẫu thuật. Loạn thị không gây ra hoặc làm nặng hơn bằng cách đọc trong ánh sáng kém, ngồi quá gần với truyền hình hoặc nheo mắt.

Hình ảnh mắt bị loạn thị.

Hình ảnh mắt bị loạn thị.

Nguyên nhân và triệu chứng của loạn thị

Nguyên nhân của loạn thị chủ yếu là do giác mạc có hình dạng bất thường. Bình thường, bề mặt giác mạc có hình cầu (ví như khi ta cắt một phần qua trái bóng đá). Khi bị loạn thị, giác mạc có độ cong không đều (ví như khi ta cắt một phần qua trái bóng bầu dục). Sự thay đổi độ cong bề mặt giác mạc làm hình ảnh của vật hội tụ thành nhiều đường tiêu trên võng mạc dẫn đến nhìn mờ nhòe, biến dạng hình ảnh.

Có nhiều loại loạn thị tùy thuộc vào phối hợp của loạn thị với cận thị và viễn thị: Loạn cận đơn thuần, loạn cận kép, loạn viễn đơn thuần, loạn viễn kép, loạn thị hỗn hợp. Tùy thuộc vào loại loạn thị và mức độ loạn thị mà gây ảnh hưởng khác nhau đến chức năng thị giác. Tất cả các loại loạn thị thường có triệu chứng nhìn mờ, mỏi mắt, nhức mắt, nhìn hình bị biến dạng, nhòe hình... Các loại loạn thị viễn thường gây nên suy giảm chức năng thị giác nhiều hơn.

Loạn thị có thể xảy ra kết hợp với các lỗi khác khúc xạ, trong đó bao gồm:

Với cận thị thành chứng cận loạn: Tình trạng này xảy ra khi giác mạc cong quá nhiều hoặc mắt dài hơn bình thường. Thay vì tập trung chính xác vào võng mạc, ánh sáng tập trung ở phía trước của võng mạc, kết quả là xuất hiện nhìn mờ cho các đối tượng ở xa.

Với viễn thị thành chứng viễn loạn: Điều này xảy ra khi giác mạc là cong quá ít hoặc mắt ngắn hơn bình thường. Hiệu ứng này là đối diện của cận thị. Khi mắt đang ở trong một trạng thái thoải mái, ánh sáng tập trung phía sau mắt làm cho các đối tượng ở gần đó mờ.

Các triệu chứng của loạn thị là: Hình ảnh bị biến dạng, có thể nhìn mờ cả xa lẫn gần, nhức đầu và mỏi mắt (vùng trán và thái dương), nhìn phải nheo mắt, chảy nước mắt, mắt bị kích thích. Trẻ bị loạn thị thường nhìn mờ, khi nhìn lên bảng hay đọc nhầm.

Đôi khi loạn thị không có triệu chứng mà chỉ được phát hiện khi bệnh nhân đến khám định kỳ, khám sàng lọc tại các trường hoặc khi khám khúc xạ để đeo kính đọc sách ở người lớn. Nếu trẻ bị loạn thị từ trung bình đến nặng không được điều chỉnh trước 5 tuổi thì thường dẫn tới nhược thị.

Phương pháp điều trị loạn thị

Mục tiêu của điều trị loạn thị là điều chỉnh độ cong không đồng đều gây mờ tầm nhìn. Điều trị bao gồm đeo kính để hiệu chỉnh và trải qua phẫu thuật khúc xạ. Đeo kính loạn thị xử lý khắc phục bằng cách chống lại độ cong của giác mạc. Các loại ống kính hiệu chỉnh là:

- Kính áp tròng: Kính áp tròng có thể sửa cả hai giác mạc và loạn thị thể thủy tinh. Nhiều loại kính áp tròng có sẵn như: cứng, mềm, mở rộng, dùng một lần, cứng nhắc và hai tiêu điểm thấm khí. Tùy bệnh nhân mà bác sĩ sẽ tư vấn nên dùng loại nào là tốt nhất. Kính áp tròng cũng được sử dụng bằng cách đeo kính áp tròng cứng nhắc trong vài giờ một ngày cho tới khi độ cong của mắt được cải thiện. Sau đó, đeo kính ít thường xuyên để duy trì hình dạng mới.

- Kính đeo mắt: Một thay thế cho kính áp tròng là kính đeo mắt. Cũng giống như kính sát tròng, kính đeo mắt giúp bù đắp cho các hình dạng không đồng đều của mắt.

- Phẫu thuật khúc xạ: Phương pháp này điều trị sửa chữa vấn đề loạn thị bằng cách tạo lại hình dáng bề mặt của mắt. Phương pháp phẫu thuật khúc xạ bao gồm:

Phẫu thuật lasik: là một thủ tục trong đó bác sĩ dùng một dụng cụ gọi là dao mổ giác mạc để thực hiện cắt mỏng tròn khớp nối vào giác mạc. Ngoài ra, cùng cắt giảm này có thể được thực hiện với một laser cắt đặc biệt để khắc hình dạng của giác mạc.

Một phương pháp khác là bác sĩ phẫu thuật loại bỏ các lớp ngoài bảo vệ của giác mạc trước khi sử dụng một laser excimer để thay đổi độ cong của giác mạc này.

Laser hỗ trợ: Trong phương pháp này, một lớp mỏng hơn nhiều của giác mạc bị gập lại làm cho mắt ít bị thiệt hại như một chấn thương xảy ra. Laser có thể là một lựa chọn tốt hơn nếu có một giác mạc mỏng hoặc nếu đang có nguy cơ cao của một chấn thương mắt tại nơi làm việc hoặc từ chơi thể thao.

BS. Hồng Minh


Ý kiến của bạn