Mùa xuân, khí hậu ẩm ướt là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn, virut phát triển mạnh và gây bệnh, trong đó có bệnh quai bị. Bệnh gặp khắp nơi trên thế giới và có thể xảy ra quanh năm nhưng thường thành dịch ở nước ta vào mùa này.
Ai có thể mắc quai bị?
Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai do virut quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính hay gặp ở lứa tuổi học đường, do virut có tên khoa học là Mumpsvirus thuộc họ Paramyxoviridae gây ra. Hơn 80% trường hợp mắc quai bị xảy ra ở trẻ em dưới 15 tuổi, thường gặp nhất là trẻ từ 6-10 tuổi. Người lớn cũng có thể bị mắc bệnh nếu không tiêm ngừa phòng bệnh trước đó. Trẻ dưới 2 tuổi và người già rất hiếm bị bệnh. Sau khi mắc bệnh, bệnh nhân có miễn dịch vững bền tồn tại nhiều năm, có thể tái phát, nhưng rất hiếm. Miễn dịch mẹ truyền cho con tồn tại khoảng 1 năm.
Nguồn bệnh là những người đang mắc quai bị cấp tính. Bệnh lây trực tiếp qua đường hô hấp, chủ yếu do tiếp xúc với nước bọt hoặc các giọt chất tiết mũi họng của người bệnh bị văng ra khi người bệnh ho hoặc chảy mũi. Người mắc quai bị có thể lây lan cho người khác 1 tuần trước khi sưng tuyến mang tai và kéo dài 2 tuần sau khi sưng tuyến mang tai. Thời gian lây mạnh nhất vào khoảng 2 ngày trước khi viêm tuyến mang tai. Bệnh thường xảy ra ở thanh thiếu niên sinh hoạt tập thể và lây lan nhanh, dịch bệnh dễ xuất hiện ở những nơi tập trung đông đúc như trường học, ký túc xá...
Virut quai bị có hướng tính gây bệnh với các tuyến ngoại tiết và thần kinh. Biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất là viêm tuyến nước bọt mang tai không hóa mủ (sốt và sưng, đau một hoặc nhiều tuyến nước bọt). Ngoài ra, các tuyến nước bọt khác (viêm ở tuyến nước bọt dưới lưỡi hoặc tuyến dưới hàm), tinh hoàn, tụy và hệ thần kinh trung ương cũng có thể bị tổn thương.
Tiêm vắc-xin là biện pháp tốt nhất phòng bệnh quai bị.
Các thể bệnh quai bị
Bệnh quai bị gồm nhiều thể thường được phân loại theo vị trí tổn thương, gồm các thể sau: thể viêm tuyến nước bọt (tuyến mang tai, dưới hàm, dưới lưỡi); thể viêm tinh hoàn; thể viêm tụy; thể thần kinh (viêm màng não, viêm não); thể kết hợp (viêm tuyến nước bọt mang tai kết hợp với viêm tinh hoàn hoặc viêm tuyến nước bọt mang tai với viêm màng não)...
Viêm tuyến nước bọt mang tai: là thể điển hình hay gặp nhất, chiếm 70% các thể có khu trú rõ. Thời gian ủ bệnh trung bình từ 18-21 ngày. Khởi phát bệnh người bệnh sẽ bị sốt 38-39oC, đau đầu, đau mỏi toàn thân, ăn ngủ kém. Giai đoạn toàn phát: sau sốt 24- 48 giờ sẽ xuất hiện viêm tuyến mang tai. Lúc đầu sưng một bên, sau 1-2 ngày sưng tiếp bên kia (thường sưng cả hai bên, ít gặp sưng chỉ một bên). Hai bên sưng thường không đối xứng (bên sưng to, bên sưng nhỏ). Da vùng má bị sưng căng, bóng, không đỏ, ấn không lõm, sờ nóng, đau, nước bọt ít, quánh. Giai đoạn lui bệnh: Người bệnh thường hết sốt sau 3-4 ngày, tuyến nước bọt mang tai hết sưng trong vòng 8-10 ngày, hạch sưng kéo dài hơn tuyến một chút. Đa số bệnh tự khỏi trong vòng 10 ngày (nếu không có biến chứng). Tuyến nước bọt không bao giờ hóa mủ (trừ khi bội nhiễm vi khuẩn) và cũng không bao giờ bị teo.
Viêm tinh hoàn: là thể thường gặp thứ hai sau viêm tuyến nước bọt mang tai. Hay gặp ở nam giới đang tuổi dậy thì hoặc đã trưởng thành (khoảng 10-30% trường hợp mắc bệnh quai bị). Viêm tinh hoàn thường bị một bên, ít gặp cả hai bên. Khi bị cả hai bên thì cũng sưng cách nhau 2-3 ngày, thường xuất hiện sau viêm tuyến nước bọt và khi các triệu chứng viêm tuyến nước bọt đã dịu đi. Thường vào ngày thứ 5 đến thứ 10 của bệnh thấy sốt xuất hiện trở lại hoặc sốt tăng lên. Có thể buồn nôn, nôn. Tinh hoàn đau, nhất là khi đi lại và to gấp 2-3 lần bình thường, sờ thấy chắc, da bìu có thể nề, căng đỏ. Trong những trường hợp nặng có thể kèm thêm viêm thừng tinh, viêm mào tinh hoàn và tràn dịch màng tinh hoàn. Thường hết sốt sau 3-5 ngày. Tinh hoàn giảm sưng từ từ, có thể 3-4 tuần sau tinh hoàn mới hết sưng đau (với thể nặng) và không bao giờ có mủ.
Điều mà người bệnh lo ngại nhất khi mắc quai bị ở thể viêm tinh hoàn là tinh hoàn có bị teo hay không? Điều này phải đợi khoảng hai tháng sau mới biết chắc (tỷ lệ teo tinh hoàn khoảng 0,5%), chứng vô tinh trùng rất hiếm. Chức năng nội tiết thường không bị ảnh hưởng. Trường hợp rất hiếm nếu bị teo tinh hoàn có thể gây các tình trạng như: chậm lớn, không có tinh trùng, vô sinh hiếm muộn. Tuy nhiên, nếu teo một tinh hoàn sẽ không có ảnh hưởng nhiều, bên lành sẽ hoạt động bù trừ. Ở các em gái có thể gặp thể viêm buồng trứng. Ngoài ra, viêm màng não, viêm não, viêm cơ tim, tuy nhiên ít gặp trên lâm sàng.
Bệnh có nguy hiểm không?
Nhìn chung, quai bị là bệnh lành tính, đa số các trường hợp đều tự hồi phục không có biến chứng. Tuy nhiên, vẫn có một số ít trường hợp có những biến chứng như: phụ nữ có thai bị quai bị có thể bị sẩy thai, đẻ non (nhất là ở giai đoạn đầu của thai kỳ), ở nam giới tuổi thành niên nếu viêm teo tinh hoàn cả hai bên có thể dẫn đến vô sinh.
Phòng ngừa cách nào?
Phát hiện sớm bệnh nhân tại cộng đồng, tổ chức cách ly và điều trị kịp thời. Có thể cách ly điều trị tại nhà theo chỉ dẫn của bác sĩ đối với các trường hợp bệnh nhẹ. Không cho bệnh nhân tới trường học, nơi làm việc hay những nơi công cộng trong vòng 7 - 9 ngày kể từ khi phát bệnh. Bệnh nhân cần nghỉ ngơi tại chỗ, hạn chế vận động. Thực hiện vệ sinh cá nhân, thường xuyên súc họng bằng dung dịch khử khuẩn hoặc nước muối loãng, đặc biệt chú ý cho nhóm trẻ em nhỏ tuổi. Thực hiện vệ sinh môi trường sống, làm thông thoáng nhà ở, tận dụng ánh sáng mặt trời.
Biện pháp hiệu quả nhất để phòng bệnh quai bị là tiêm vắc- xin phòng bệnh quai bị, bắt đầu từ 12 tháng tuổi trở lên. Trường hợp người đã tiếp xúc với bệnh nhân mắc quai bị mà chưa tiêm vắc-xin phòng quai bị thì cần phải tiêm ngay để có thể bảo vệ bản thân tránh lây nhiễm. Lưu ý cần tiêm vắc-xin phòng quai bị không quá 72 giờ sau khi tiếp xúc với người mắc bệnh.