Nhiều trường hợp nhập viện phải điều trị dài ngày, bệnh chuyển biến nặng rất nguy hiểm đến tính mạng. Để hiểu về bệnh, cách phòng bệnh và điều trị, mời các bạn tìm hiểu bài viết dưới đây.
Các yếu tố nguy cơ mắc NKĐHH
Yếu tố cơ địa của từng người: Những người có các yếu tố sau dễ mắc NKĐHH: Trẻ đẻ non, nhẹ cân hay trẻ không được bú sữa mẹ; các trẻ em suy dinh dưỡng, còi xương; trẻ mắc bệnh tim, phổi bẩm sinh; những người có suy giảm miễn dịch: mắc bệnh mạn tính (hen phế quản, giãn phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, tiểu đường, bệnh ác tính dùng thuốc kéo dài...).
Yếu tố môi trường - xã hội: Những người hút thuốc lá, thuốc lào hoặc người sống trong môi trường tiếp xúc với khói thuốc lá, thuốc lào (hút thuốc thụ động); những người nghiện rượu; môi trường sống ô nhiễm khói, bụi (khói than tổ ong, khói bếp, sống gần nhà máy khói bụi hay sản xuất các hóa chất độc hại) hay nơi ở chật chội, ẩm thấp... Người có chế độ dinh dưỡng kém, lao động nặng cũng rất dễ mắc NKĐHH.
Những bệnh NKĐHH bao gồm: NKĐHH trên như viêm mũi, viêm xoang, viêm họng, viêm thanh quản cấp. NKĐHH dưới: viêm phế quản cấp; đợt cấp của viêm phế quản mạn, giãn phế quản và bệnh phổi tắc nghẽn; viêm phổi cấp.
Đường hô hấp và phân loại nhiễm khuẩn đường hô hấp.
Dấu hiệu đặc trưng khi bị NKĐHH
Các triệu chứng NKĐHH trên hay gặp là sốt, sổ mũi, hắt hơi, ho, khạc đờm, ngứa họng hoặc đau họng khi nuốt, nói khàn. Kèm theo ho có thể kèm theo khạc đờm: đờm có thể trong, hoặc ban đầu đờm trong sau đó chuyển sang vàng, xanh... Ở trẻ em có thể xuất hiện khó thở, nặng hơn có thể xuất hiện dấu hiệu tím môi, đầu chi; vật vã kích thích, vã mồ hôi. Khám thực thể thường thấy niêm mạc mũi, họng sung huyết, viêm đỏ, nề, tăng tiết nhầy, amidan sưng to hoặc có các hốc mủ... Xét nghiệm công thức máu có thể thấy thay đổi số lượng và công thức bạch cầu. NKĐHH trên nếu không được phát hiện, điều trị sớm và đúng, có thể dẫn đến NKĐHH dưới, gây ra những biến chứng nguy hiểm.
Các bệnh NKĐHH dưới rất đa dạng với triệu chứng phổ biến gồm: sốt, ho, khạc đờm, khó thở và đau ngực. Đặc điểm đờm tùy theo bệnh và căn nguyên vi sinh gây bệnh: viêm phế quản cấp thường gặp khạc đờm ở giai đoạn viêm long; viêm phế quản mạn, bệnh phổi tắc nghẽn và giãn phế quản đợt cấp thường gặp số lượng đờm tăng và thay đổi màu sắc đờm; căn nguyên NKĐHH dưới do virut thường khạc đờm trong, căn nguyên do vi khuẩn thường khạc đờm đục và có các màu sắc khác nhau. Khám thực thể tùy theo các bệnh mà có thể thấy các ran rít, ran ngáy, ran ẩm (trong viêm phế quản cấp, đợt cấp của viêm phế quản mạn, bệnh phổi tắc nghẽn, giãn phế quản), ran nổ (trong viêm phổi cấp). Các biến chứng của NKĐHH dưới có thể gặp như suy hô hấp, tràn dịch, tràn khí màng phổi, trụy tim mạch... Các xét nghiệm cần thiết gồm: xét nghiệm công thức máu (thường có thay đổi số lượng và công thức bạch cầu); chụp Xquang phổi: ở bệnh nhân viêm phổi cấp sẽ có tổn thương ở nhu mô phổi. Dựa vào đặc điểm thay đổi công thức máu và tổn thương trên Xquang có thể gợi ý căn nguyên vi sinh gây bệnh để định hướng điều trị. Xét nghiệm đờm (nuôi cấy hoặc xác định gene...) nhằm xác định căn nguyên vi sinh gây bệnh.
Không tự ý sử dụng kháng sinh trong điều trị NKĐHH
Đối với NKĐHH trên:
Nếu định hướng đến căn nguyên do virut thường chỉ điều trị các triệu chứng. Trường hợp do nhiễm khuẩn mới dùng kháng sinh. Không được tự ý sử dụng kháng sinh khi chưa có chỉ định của thầy thuốc. Cần chú ý điều trị các triệu chứng như hạ sốt, điều trị nghẹt mũi, bổ sung nước điện giải, có chế độ dinh dưỡng tốt... Nếu bệnh nhẹ có thể điều trị tại nhà theo hướng dẫn của thầy thuốc. Cần theo dõi sát những diễn biến của bệnh, nếu bệnh nặng lên phải đưa ngay đến các cơ sở y tế để có các biện pháp điều trị và xử trí kịp thời.
Đối với NKĐHH dưới:
Lựa chọn kháng sinh trên lâm sàng thường dựa vào đặc điểm lâm sàng, thay đổi công thức máu, tổn thương trên Xquang phổi để định hướng căn nguyên vi khuẩn và lựa chọn kháng sinh thích hợp (còn gọi là điều trị kháng sinh ban đầu theo “kinh nghiệm”). Theo dõi đáp ứng lâm sàng, Xquang để thay đổi kháng sinh thích hợp. Điều trị triệu chứng và dự phòng các biến chứng cũng rất quan trọng: dùng thuốc hạ sốt, long đờm, giãn cơn trơn phế quản, bổ sung nước, điện giải... Đối với bệnh nhân viêm phổi, thầy thuốc cần đánh giá mức độ nặng nhẹ của bệnh để đưa ra tiên lượng bệnh và quyết định bệnh nhân điều trị ngoại trú, nội trú hay ở khoa hồi sức tích cực. Các yếu tố để đánh giá mức độ nặng nhẹ của bệnh nhân viêm phổi gồm: tuổi, tiền sử mắc các bệnh phối hợp hay các dấu hiệu lâm sàng nặng, tổn thương trên Xquang rộng, tràn mủ màng phổi...
Một trong những biện pháp chủ yếu để dự phòng NKĐHH là thay đổi những thói quen và cải thiện môi trường sống, làm việc: bỏ hút thuốc lá, hoặc cai thuốc nhờ tư vấn và trợ giúp của các thầy thuốc. Hạn chế uống rượu, bia. Khi ra đường nên đeo khẩu trang. Tránh hoặc hạn chế tiếp xúc với các loại khói, bụi. Vệ sinh thường xuyên nhà ở và môi trường xung quanh nhà. Thường xuyên vệ sinh răng, miệng sạch sẽ. Thực hiện chế độ ăn uống đầy đủ các chất đạm, vitamin, chất khoáng. Có chế độ lao động, nghỉ ngơi, rèn luyện thể dục hợp lý, tránh lạnh đột ngột (không tắm lạnh, ăn đồ ăn, uống nước quá lạnh...). Tiêm vắc-xin phòng cúm và phòng phế cầu là một trong những biện pháp dự phòng NKĐHH có hiệu quả nhất định. Khi có các triệu chứng NKĐHH người bệnh cần phải đến các cơ sở y tế gần nhất để được tư vấn và điều trị kịp thời, hiệu quả.