Các bác sĩ Bệnh viện Xanh Pôn đã thực hiện phẫu thuật tạo hình lại khớp gối bằng khớp gối nhân tạo sau khi cắt bỏ rộng rãi khối u tế bào khổng lồ mâm chày với kết quả theo dõi ban đầu khả quan.
Theo PGS.TS. Trần Trung Dũng - Phó Giám đốc Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn, giảng viên Bộ môn Ngoại Trường Đại học Y Hà Nội, u tế bào khổng lồ của xương là loại thương tổn u khá thường gặp, sự khó khăn trong điều trị u tế bào khổng lồ liên quan đến vị trí của khối u, đặc biệt là các khối u gần khớp. Sự phá hủy cấu trúc xương và khớp làm cho việc điều trị tổn thương u phải cân nhắc giữa việc điều trị triệt để khối u và bảo tồn chức năng của khớp. Những trường hợp khối u phá hủy rộng rãi đầu xương, khả năng bảo tồn chức năng khớp vô cùng khó khăn.
Ca bệnh phức tạp
Bệnh nhân nam, 25 tuổi, phát hiện u tế bào khổng lồ mâm chày cách đây 6 tháng, được can thiệp phẫu thuật lấy u, ghép xương tự thân. Sau 6 tháng, bệnh nhân đến bệnh viện trong tình trạng đau, khả năng đi lại khó khăn, phim Xquang, cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ cho thấy khối u tế bào khổng lồ mâm chày ngoài, đã phá huỷ hoàn toàn cấu trúc mặt khớp và thành xương phía sau mâm chày ngoài.
Hình ảnh phim chụp cắt lớp vi tính của bệnh nhân trước phẫu thuật.
Bệnh nhân được làm các thăm dò toàn thân, hội chẩn liên chuyên khoa: ung bướu, chẩn đoán hình ảnh, chấn thương chỉnh hình và có các phương án điều trị được đặt ra để trao đổi bàn bạc với bệnh nhân và gia đình: 1 là cắt cụt chi trên khớp gối, 2 là tiếp tục lấy khối u rộng rãi và các biện pháp ghép xương, hàn khớp gối và 3 là cắt bỏ xương rộng rãi kết hợp với phục hồi chức năng khớp gối bằng khớp gối nhân tạo.
PGS.TS. Dũng chia sẻ, sau khi thống nhất ý kiến giữa bệnh nhân, gia đình và tập thể các bác sĩ, phương án 3 được lựa chọn. Cuộc mổ kéo dài 2 tiếng rưỡi, cắt bỏ rộng rãi khối u và 1 phần xương mâm chày quanh u, đảm bảo đến phần xương lành của bệnh nhân. Khớp gối nhân tạo được sử dụng để thay cho bệnh nhân là bộ khớp thay lại với phần chuôi nằm sâu trong ống tuỷ 16cm tính từ mặt khớp nhân tạo để đảm bảo độ vững cơ học của khớp nhân tạo. Phần khuyết xương do khối u được sử dụng xi măng sinh học để tạo hình lại hình thể của mâm chày.
Vững tin của bệnh nhân và quyết tâm của y bác sĩ
Sau mổ, bệnh nhân được chăm sóc tại chỗ, tập phục hồi chức năng và tập đi lại. 2 tuần sau mổ, bệnh nhân có khả năng đi lại không cần dụng cụ trợ đỡ, vết thương liền tốt và đang duy trì tập gấp gối. Ở thời điểm 4 tuần sau mổ, bệnh nhân đi đường bằng gần như bình thường, không đau, biên độ gối tăng dần. Lịch tái khám và theo dõi duy trì dự kiến 2 tháng/lần trong năm đầu tiên, đặc biệt lưu ý đến các dấu hiệu sớm của tái phát khối u tại chỗ.
PGS.TS. Dũng cho biết thêm, kết quả bước đầu về chức năng khớp là khả quan, tuy nhiên, việc theo dõi sát về lâm sàng và phát hiện các bất thường liên quan đến bệnh lý và tuổi thọ của khớp là rất quan trọng. Rất may là bệnh nhân của chúng tôi thực sự tin tưởng vào chúng tôi và ý thức rất rõ tầm quan trọng của việc theo dõi tiếp theo.
Việc quyết định lựa chọn phương án này đòi hỏi sự quyết tâm cao độ của tập thể bác sĩ cũng như bệnh nhân và gia đình vì từ trước đến nay chưa có ca nào được triển khai mặc dù chúng tôi đã gặp và tham gia phẫu thuật những ca tương tự khi còn học tập tại Nhật Bản. Bên cạnh đó, những kết quả tốt của các tác giả khác báo cáo với số lượng lớn các ca theo dõi như của Natarajan hoặc với bệnh lý hiểm nghèo hơn như thay khớp và xương đùi nhân tạo cho ung thư đầu dưới xương đùi của Tang Liu và cộng sự cũng như nhiều tác giả khác khiến chúng tôi vững tin và quyết tâm hơn vào lựa chọn của mình.
Chia sẻ về ca bệnh, PGS.TS. Dũng cho biết, sự lựa chọn phương án điều trị, đặc biệt là các tổn thương bệnh lý u của xương khớp luôn luôn là khó khăn, không chỉ với bác sĩ điều trị mà cả với bệnh nhân và gia đình. Không có phương án nào hoàn hảo để vừa giải quyết triệt để tổn thương u đồng thời bảo tồn được chức năng khớp. Lựa chọn phương án nào, bên cạnh việc cân nhắc các yếu tố chuyên môn, vấn đề không kém phần quan trọng xuất phát từ các yếu tố xã hội: nhu cầu của người bệnh, sự am hiểu và quyết tâm theo đuổi phương án điều trị và một vấn đề không kém phần quan trọng nữa là sự vững tin của bệnh nhân và gia đình bệnh nhân.