Khi bắt đầu đại dịch do COVID-19, một số nghiên cứu đã đánh giá các phát hiện của EEG, MRI về các dấu hiệu trên não ở những bệnh nhân mắc COVID-19, nhưng những nghiên cứu này không cho thấy bằng chứng về các mẫu cụ thể.
Khi càng nhiều bệnh nhân COVID-19 có biểu hiện thần kinh, các nhà khoa học đặt ra câu hỏi: Liệu EEG, MRI và kết hợp với các phân tích lâm sàng, dấu hiệu sinh học có thể giúp xác định rõ hơn đặc điểm bệnh nhân mắc bệnh COVID-19 bị ảnh hưởng thần kinh như thế nào và chẩn đoán bệnh não liên quan COVID-19 cụ thể không? Nếu tìm được các đặc điểm đó và bằng cách theo dõi đa phương thức có thể xác định tốt hơn bệnh nhân mắc bệnh não liên quan đến COVID-19 và hướng dẫn chiến lược điều trị.
Qua chup MRI giúp phát hiện sớm các tổn thương ở não.
Theo đó, các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Pitié-Salpêtrière, (Paris - Pháp) đã thu thập nhóm bệnh nhân trưởng thành được chẩn đoán mắc hội chứng hô hấp cấp tính nặng do SARS-Cov2 phải nhập viện. Nhóm bệnh nhân này được thực hiện các biện pháp EEG và/hoặc MRI nhằm theo dõi và phát hiện các biểu hiện tổn thương hệ thần kinh.
Trong số 644 bệnh nhân COVID-19, 78 người (57 nam, còn lại là nữ) đã trải qua EEG và MRI. Các chỉ định chính cho điện não đồ ở những bệnh nhân này là có dấu hiệu: Mê sảng, co giật và chậm tỉnh giấc trong phòng chăm sóc đặc biệt sau khi ngừng điều trị bằng thuốc an thần.
69 bệnh nhân được EEG đã phát hiện các bệnh lý, bao gồm: Các đặc điểm bệnh não nhiễm độc do chuyển hóa, bất thường vùng trán, thải độc theo chu kỳ và các hoạt động động kinh.
57 bệnh nhân chụp MRI não, thì 41 bệnh nhân được phát hiện có biểu hiện bất thường ở não, bao gồm: Bất thường về tưới máu, tổn thương thiếu máu cục bộ cấp tính, nhiều vi xuất huyết và tổn thương tăng chất trắng. 55 bệnh nhân có biểu hiện bất thường về sinh học, bao gồm rối loạn natri máu, suy thận và rối loạn chức năng gan.
Có 9 bệnh nhân (1% - 9/644 bệnh nhân) không xác định được nguyên nhân chấn thương não ngoài COVID-19 đã được cách ly để tìm hiểu thêm, nhưng chấn thương não của họ cũng được xác định là bệnh não liên quan đến COVID-19. 6 trong số 9 bệnh nhân này bị rối loạn vận động, 7 người bị hội chứng trán, 4 người bị suy thân não, 4 người bị phóng điện não đồ định kỳ và 3 người có tổn thương tăng cường chất trắng trên MRI.
Trong số các bệnh nhân được xuất viện, có 35% bệnh nhân đã hồi phục hoàn toàn các triệu chứng thần kinh trong khi 65% bệnh nhân có các triệu chứng thần kinh dai dẳng.
Các nhà khoa học cũng phát hiện, các bệnh nhân phải sử dụng ICU (95%) có hoạt động nền bất thường hơn bệnh nhân không ở ICU (65%). Tuy nhiên, các đợt phóng điện định kỳ, các hoạt động động kinh, các bất thường khu trú, hoặc các mô hình bệnh não đã được thấy ở cả bệnh nhân ICU và bệnh nhân không ICU.
Sử dụng dữ liệu lâm sàng EEG và MRI, các nhà khoa học đã phát triển một mô hình để xác định bệnh nhân tổn thương não. Các biểu hiện thần kinh và bất thường MRI được mô tả theo các mẫu EEG. Những bệnh nhân bị rối loạn ý thức, suy giảm chức năng thân não hoặc hội chứng trán dường như có các bất thường hơn những người bị hội chứng tiểu não hoặc rối loạn tâm thần.
Các nhà khoa học cho rằng, thực hiện đánh giá đa phương thức đối với bệnh nhân với COVID-19 đã phát hiện các biến chứng thần kinh của những bệnh nhân này có thể liên quan đến các biến chứng ICU, các tình trạng bệnh lý đã có, bệnh não nhiễm độc hoặc chuyển hóa, đột quỵ.
Từ phát hiện này, các bác sĩ có thể hướng tới các chiến lược điều trị, nhất là các bệnh nhân có biểu hiện bất thường về sinh học (rối loạn natri máu, suy thận và rối loạn chức năng gan). Trong 55 bệnh nhân có dấu hiệu bất thường sinh học được điều trị bằng kháng sinh, an thần, điều trị thần kinh… đã cho kết quả bước đầu ổn định.