Tuy nhiên, ngày nay dưới ánh sáng mới của khoa học kỹ thuật tiến bộ áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, người ta đã hiểu sâu sắc hơn về cơ chế sinh bệnh học của các tổn thương não do đột quỵ, đặc biệt là khả năng tái cấu trúc lại hệ thần kinh bằng cách tái sinh lại cả đơn vị thần kinh- mạch máu (Neuro-Vascular Unit) trong não. Trong đó, bao gồm sự tái sinh các tế bào thần kinh, tân sinh mạch máu nuôi dưỡng tế bào thần kinh và tăng sinh tế bào thần kinh đệm để sửa chữa các sợi thần kinh đã bị tổn thương. Chính phát hiện này đưa đến khả năng điều trị đột quỵ nhồi máu não có tính hiện thực; nâng cao cơ hội chữa khỏi cho bệnh nhân.
Đột quỵ não bao gồm ba thể chính, đó là chảy máu não, chảy máu dưới mạng nhện và thiếu máu não cục bộ hay còn gọi là nhồi máu não. Trong đó, nhồi máu não chiếm tỷ lệ cao khoảng 85%. Trong số những bệnh nhân sống sót sau giai đoạn cấp của đột quỵ thì tỷ lệ chịu các di chứng về rối loạn vận động, cảm giác, ngôn ngữ và các rối loạn chức năng nhận thức như: suy giảm trí nhớ, sa sút trí tuệ, suy giảm các chức năng thực hiện các động tác trong sinh hoạt hàng ngày cũng như giao tiếp với cộng đồng cũng chiếm một tỷ lệ khá cao.
Trong điều trị đột quỵ giai đoạn cấp, người ta sử dụng thuốc làm tan huyết khối (như rTPA) hoặc lấy huyết khối bằng các biện pháp cơ học làm tái thông các mạch máu não bị tắc. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ hiệu quả trong 4,5 giờ đầu sau khi bệnh nhân bị nhồi máu não. Vì vậy, việc điều trị đối với các bệnh nhân mắc Đột quỵ nhồi máu não trong giai đoạn cấp vẫn còn nhiều hạn chế, chỉ khoảng 5% các trường hợp được gọi là thành công trong những giờ đầu sau khi khởi phát các triệu chứng của đột quỵ. 95% các trường hợp còn lại nếu sống sót sau giai đoạn cấp có nguy cơ gánh chịu những di chứng nặng nề.
Do vậy, hàng loạt các loại thuốc bảo vệ và dinh dưỡng thần kinh đã đuợc nghiên cứu để có thể dùng sau những giờ đầu bị đột quỵ và điều trị lâu dài cho tất cả các bệnh nhân.
Song, để điều trị hiệu quả, các loại thuốc này phải có tác động đa cơ chế vào bao gồm 4 khâu chính: (1) máu đến não giảm sẽ gây nhiễm toan và chết tế bào, khử màng cực tế bào làm mở các kênh canxi và hoạt hóa các men ly giải protein làm tăng chết tế bào và tổn thương nhu mô não, (2) khử cực màng tế bào làm tăng giải phóng glutamate, (3) hoạt hóa các thụ thể trung gian NMDA, AMPA làm canxi đổ vào nội bào nhiều hơn và gây chết tế bào não nhiều hơn, (4) sinh ra các tế bào gốc tự do và góp phần làm tổn thương tế bào chết nhu mô não. Thế nhưng, phần lớn các thuốc bảo vệ thần kinh thường chỉ đánh vào một hoặc hai khâu nhất định, cứu sống được tế bào não theo một cơ chế nhưng tế bào não vẫn chết do các cơ chế còn lại.
Vì vậy, hiện nay y học thế giới chú ý nhiều hơn vào giai đọan phục hồi sau giai đoạn cấp, kết hợp cả hai phương pháp: dược liệu pháp (dùng các thuốc dinh dưỡng thần kinh giúp đẩy mạnh tái cấu trúc não, kích thích tính mềm dẻo của thần kinh, hỗ trợ biệt hóa tế bào non thành tế bào chức năng – neuroplasticity) và phuơng pháp phục hồi chức năng (bao gồm vật lý trị liệu, liệu pháp phục hồi ngôn ngữ, vận động trị liệu…). Các liệu pháp này sẽ kích thích sửa chữa thần kinh (repairing) và giúp não học lại các chức năng đã mất (relearning).
Sự kết hợp chặt chẽ giữa việc sử dụng thuốc bảo vệ và dinh dưỡng thần kinh và kích thích tính mềm dẻo thần kinh (neuroplasticity) với các phương pháp phục hồi chức năng thần kinh khác một cách hợp lý, cụ thể cho từng bệnh nhân đột quỵ sẽ mang lại kết quả tốt nhất, giúp bệnh nhân sớm trở lại cuộc sống thường ngày.