Bệnh lao do vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây nên. Thể bệnh lao phổi khá phổ biến, chiếm tỉ lệ cao và là nguồn lây bệnh chính cho những người ở chung quanh; ngoài ra còn có thể bệnh lao ngoài phổi cũng cần được lưu ý phát hiện.
Chẩn đoán xác định bệnh lao ở trẻ em
Việc nhận biết sớm dấu hiệu bệnh lao ở trẻ em trên thực tế cần được các cơ sở y tế lưu ý để làm căn cứ giúp cho chẩn đoán xác định bệnh.
Tiền sử: xem xét trẻ có tiếp xúc gần gũi với người mắc bệnh lao phổi trong thời gian khoảng 1 - 2 năm gần đây hay không, có các triệu chứng lâm sàng nghi lao đã được điều trị nhưng triệu chứng không thuyên giảm hoặc ít cải thiện và nhanh tái phát.
Triệu chứng lâm sàng nghi lao: ghi nhận triệu chứng toàn thân như sốt, ra mồ hôi đêm, mệt mỏi, giảm chơi đùa, chán ăn, không tăng cân hay sụt cân, suy dinh dưỡng...; triệu chứng cơ năng được biểu hiện tùy thuộc vào cơ quan mắc bệnh lao, các triệu chứng thường kéo dài trên 2 tuần và không cải thiện với những liệu pháp điều trị khác ngoài lao; triệu chứng thực thể thường nghèo nàn hoặc rầm rộ cũng tùy theo cơ quan bị mắc bệnh và giai đoạn tiến triển của bệnh.
Bệnh lao ở trẻ em chiếm tỉ lệ 10 -15% các trường hợp mắc mới mỗi năm, vì vậy cần lưu ý phát hiện Ảnh minh họa
Phim chụp X-quang: các hình ảnh tổn thương nghi lao ở trẻ em hay gặp trên phim chụp X-quang ngực thường quy được ghi nhận như: hạch bạch huyết cạnh khí phế quản hoặc hạch rốn phổi to biểu hiện với hình mờ tròn hoặc bầu dục; có nốt lao, đông đặc nhu mô phổi; có nốt lao kê, hang lao; có hình ảnh tràn dịch màng phổi, màng tim; có hình ảnh dày rãnh liên thùy phổi, có thể kèm theo hình ảnh tràn dịch khu trú. Việc chụp phim X-quang ngực giúp xác định các tổn thương do lao tại phổi phối hợp với lao ở các cơ quan khác. Đối với tổn thương nghi lao cột sống, thấy trên phim chụp X-quang thân đốt sống bị phá hủy tạo thành hình chêm trên phim chụp nghiêng, có thể thấy hình ảnh ổ ápxe lạnh ở hai bên cạnh các đốt sống tổn thương trên phim chụp thẳng. Đối với tổn thương xương khớp nghi lao, thấy trên phim chụp X-quang hình ảnh ổ khớp, cổ hay thân xương bị phá hủy; hình ảnh ổ khuyết xương, tràn dịch ổ khớp.
Xét nghiệm tìm vi khuẩn lao: đây là tiêu chuẩn vàng để giúp chẩn đoán xác định bệnh lao. Bất kỳ bệnh phẩm nào cũng đều có thể lấy được để xét nghiệm tìm vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis tùy theo thể bệnh như: đờm, dịch dạ dày, dịch các màng, dịch phế quản, dịch não tủy, mủ hạch, phân, mủ ápxe... Kỹ thuật xét nghiệm thường được thực hiện là Xpert MTB/RIF (mycobacterium tuberculosis/rifampicin), nhuộm soi trực tiếp, nuôi cấy...
Xét nghiệm nhiễm lao: thực hiện thử nghiệm test da hoặc IGRA (interferon gamma release assay) với kết quả dương tính cho biết trẻ đã bị nhiễm bệnh lao nhưng không khẳng định trẻ đang mắc bệnh lao. Các xét nghiệm này cho kết quả âm tính cũng chưa loại trừ trẻ có mắc lao hay không khi có sự xuất hiện các yếu tố chẩn đoán lao phổi ở trẻ em.
Các xét nghiệm khác: cũng cần được thực hiện để giúp hỗ trợ cho việc chẩn đoán xác định bệnh lao như: xét nghiệm giải phẫu bệnh hay tế bào-mô bệnh học đối với trường hợp lao hạch, lao các màng, lao xương khớp... Chẩn đoán hình ảnh bằng kỹ thuật siêu âm, chụp ảnh cắt lớp vi tính CT-scan, chụp phim cộng hưởng từ MRI (magnetic resonance imaging)... các cơ quan nghi nhiễm lao.
Chẩn đoán bệnh lao phổi
Trẻ em được chẩn đoán xác định mắc bệnh lao phổi khi đáp ứng đầy đủ một trong hai điều kiện: trẻ có triệu chứng lâm sàng nghi lao và xét nghiệm tìm vi khuẩn lao dương tính đối với các bệnh phẩm lâm sàng như: đờm, dịch dạ dày, dịch phế quản, phân. Được các bác sĩ chuyên khoa hội chẩn chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng như ho, sốt, ra mồ hôi đêm, sụt cân hay không tăng cân, giảm chơi đùa trên 2 tuần; có hình ảnh phim chụp X quang ngực nghi lao; không đáp ứng với điều trị kháng sinh phổ rộng trong thời gian 10 - 14 ngày; có tiền sử tiếp xúc với nguồn lây trong vòng 2 năm gần đây; thử nghiệm test da hoặc IGRA dương tính.
Chẩn đoán bệnh lao ngoài phổi
Trong các bệnh lao ngoài phổi ở trẻ em, lao hạch ngoại vi là thể bệnh lao thường gặp và đứng hàng thứ hai sau lao phổi. Trẻ được chẩn đoán mắc lao hạch ngoại vi khi có các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng ghi nhận. Về lâm sàng, hạch lao thường gặp ở vùng cổ, tiến triển chậm, to dần, kích thước trên 2cm, không đối xứng, không đau, không đỏ; trong giai đoạn muộn nếu không được điều trị có thể dò ra chất bã đậu, lâu liền sẹo; triệu chứng toàn thân có thể gặp như sốt, ra mồ hôi ban đêm, sụt cân; điều trị kháng sinh phổ rộng khoảng 1 - 2 tuần không đáp ứng. Về cận lâm sàng, xét nghiệm tế bào học có thể thấy chất hoại tử bã đậu, tế bào bán liên, tế bào khổng lồ trong các bệnh phẩm lâm sàng hạch từ chọc hút, dịch mủ; xét nghiệm mô bệnh học bệnh phẩm sinh thiết hạch thấy có hình ảnh nang lao điển hình với ở giữa là vùng hoại tử bã đậu, bao quanh là các tế bào bán liên, tế bào khổng lồ và tế bào lympho, ngoài cùng là lớp tế bào xơ; có thể xét nghiệm soi trực tiếp, xét nghiệm Xpert MTB/RIF hoặc nuôi cấy tìm vi khuẩn lao từ bệnh phẩm mủ hạch. Lưu ý cần chẩn đoán phân biệt với hạch viêm do phản ứng BCG, vị trí thường gặp là trong hố nách, thượng đòn cùng bên với chỗ tiêm BCG và thường xuất hiện trong năm đầu tiên sau khi tiêm; trường hợp này cần xử trí tại chỗ, không dùng phác đồ điều trị lao hạch; nếu hạch BCG có hiện tượng lan tỏa, cần hội chẩn với bác sĩ chuyên khoa lao để định hướng điều trị.
Ngoài lao hạch ngoại vi là thể bệnh khá phổ biến của bệnh lao ngoài phổi, trên thực tế còn gặp các thể bệnh lao ngoài phổi khác cũng cần được lưu ý như lao màng phổi, thể lao lan tràn và nặng ở trẻ em dưới 5 tuổi, thể lao ở trẻ em từ 5 tuổi trở lên.
Lao màng phổi có biểu hiện lâm sàng thường gặp là nghe tiếng rì rào phế nang giảm và gõ đục, có thể có đau tức; thực hiện xét nghiệm chụp phim X-quang, chọc dịch màng phổi để giúp chẩn đoán; khuyến cáo cần điều trị bệnh lao, nếu dịch màng phổi có mủ cần xem khả năng viêm mủ màng phổi và chuyển lên tuyến trên.
Trẻ em dưới 5 tuổi có thể mắc thể lao lan tràn và nặng như lao màng não, lao kê. Lao màng não có biểu hiện lâm sàng hay gặp với triệu chứng đau đầu, khó chịu, quấy khóc, nôn, hôn mê, giảm hoặc mất ý thức, co giật, cổ cứng, thóp phồng, liệt...; xét nghiệm chọc dò tủy sống lấy dịch não tủy, chụp phim X-quang phổi để xác định, trường hợp này được khuyến cáo nên nhập viện để điều trị lao. Lao kê với dấu hiệu lâm sàng có thể rầm rộ như khó thở, sốt cao, tím tái không tương xứng dấu hiệu thực thể ở phổi, hôn mê, suy kiệt...; cần chụp phim X-quang phổi để xác định; trường hợp bệnh lý này được khuyến cáo điều trị tại chỗ hoặc chuyển lên tuyến trên.
Trẻ em từ 5 tuổi trở lên có thể mắc các bệnh lao ngoài phổi như lao màng bụng, lao cột sống, lao màng ngoài tim, lao xương khớp. Lao màng bụng với biểu hiện lâm sàng hay gặp là bụng to dần, cổ trướng, gõ đục phần thấp hoặc có các đám cứng trong ổ bụng; xét nghiệm chọc hút màng bụng để xác định; trường hợp này nên chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lao cột sống với biểu hiện lâm sàng hay gặp là đau cột sống vùng tổn thương, đau tăng khi vận động, cột sống bị biến dạng, có thể chân bị yếu hay bị liệt; chụp phim X quang cột sống để xác định và nên chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lao màng ngoài tim với biểu hiện lâm sàng hay gặp là nhịp tim nhanh, tiếng tim mờ, mạch khó bắt, khó thở; chụp phim X quang lồng ngực, siêu âm tim, chọc dịch màng tim để xác định và nên chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lao xương khớp với biểu hiện lâm sàng hay gặp ở cuối các xương dài, khớp sưng biến dạng, hạn chế vận động, có hiện tượng tràn dịch một bên và thường xảy ra ở khớp gối hoặc khớp háng; cần chụp phim X-quang, hút dịch ổ khớp để xác định; trường hợp này cần chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lưu ý dịch bệnh phẩm được lấy ra theo kỹ thuật chọc hút có đặc điểm là dịch lỏng màu vàng chanh, protein cao, nhuộm và soi trực tiếp có các tế bào bạch cầu, chủ yếu là tế bào lympho. Trường hợp bệnh không chuyển được lên tuyến trên thì phải bắt đầu điều trị bệnh lao tại chỗ theo phác đồ quy định.
Hiện nay tình hình bệnh lao ở trong cộng đồng đang có chiều hướng phát triển và lan rộng do công tác dự phòng ở các địa phương còn gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, cơ sở y tế cần lưu ý phát hiện bệnh lao ở trẻ em kể cả thể bệnh lao phổi và thể bệnh lao ngoài phổi vì theo các nhà khoa học mỗi năm trẻ em bị mắc bệnh lao chiếm tỉ lệ khoảng 10 - 15% các trường hợp mắc mới. Phát hiện sớm những dấu hiệu nghi ngờ trên lâm sàng sẽ giúp cho việc chẩn đoán xác định bệnh kịp thời, chính xác; theo đó lựa chọn biện pháp xử trí điều trị bệnh phù hợp và có hiệu quả trước thực trạng vi khuẩn lao kháng thuốc điều trị đang sử dụng.