Nếu không hiểu rõ Parkinson, rất nhiều người sẽ cho đây là thuật ngữ chỉ chung một loại bệnh. Tuy đều có các triệu chứng giống nhau và đều bắt nguồn từ sự thiếu hụt dopamin - một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng giúp các tế bào não kiểm soát các hoạt động, cử động, giúp giữ thăng bằng - nhưng sự thiếu hụt dopamin của hai tình trạng bệnh trên lại xuất phát từ hai cơ chế khác nhau.
Bệnh Parkinson xảy ra do tình trạng thiếu hụt dopamin khi các tế bào sản sinh dopamin trong não bị tổn thương hoặc chết đi, còn được gọi là bệnh Parkinson nguyên phát.
Trong khi đó, hội chứng Parkinson có nguyên nhân chủ yếu do sự mất cân bằng giữa chất dẫn truyền thần kinh dopamin và chất ức chế dẫn truyền thần kinh acetylcholin, được gọi là Parkinson thứ phát, có thể do những chấn thương cơ học vùng não bộ như chấn thương não hoặc viêm màng não, u não, đột quỵ, thiếu máu não mạn tính, hay nhiễm độc thần kinh do hóa chất, thuốc điều trị.
Bệnh Parkinson tiến triển nặng chủ yếu xảy ra với độ tuổi 60
Là bệnh lý thoái hóa hệ thần kinh trung ương mạn tính, gây ra các rối loạn về vận động, thăng bằng và kiểm soát cơ như: run tay, chuyển động chậm, cứng cơ..., khiến bệnh nhân có dáng đi và tư thế bất thường. Thậm chí, người mắc bệnh Parkinson còn có thể mất đi một số chức năng vật lý bình thường.
Bệnh thường tiến triển nặng trong khoảng vài năm đến vài chục năm, chủ yếu xảy ra với độ tuổi 60. Giai đoạn cuối, người bệnh thường mất dần khả năng vận động rồi suy kiệt và tử vong.
Bệnh Parkinson tiến triển qua 5 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Các dấu hiệu chỉ khởi phát ở một bên cơ thể và người bệnh vẫn có thể tự chủ trong sinh hoạt hàng ngày.
- Giai đoạn 2: Các dấu hiệu đã chuyển sang cả hai bên của cơ thể nhưng chưa gây mất thăng bằng.
- Giai đoạn 3: Người bệnh đã mất thăng bằng nhưng phần nào vẫn tự chủ được trong hoạt động.
- Giai đoạn 4: Chức năng vận động của người bệnh suy giảm nặng, muốn đi đứng được thì cần thêm sự hỗ trợ của người khác.
- Giai đoạn 5: Người bệnh không thể tự chủ được nữa, phải nằm tại giường hoặc ngồi trên xe lăn.
Dấu hiệu nhận biết bệnh Parkinson
- Giai đoạn sớm: Khi thực hiện các động tác đơn giản, người bệnh cảm thấy đau cơ, mệt mỏi, vụng về, rối loạn chữ viết. Ngoài ra còn bị rối loạn tiêu hóa như táo bón, hoặc giảm hoạt động một tay, kéo lê một chân, trầm cảm, da đầu gối hoặc mặt bị bong vảy, đôi khi có run nhưng không liên tục.
- Giai đoạn muộn và tiến triển nặng thường có các triệu chứng:
- Cứng cơ: Đây là triệu chứng rất điển hình ở người bệnh vì họ sẽ thấy tất cả các nhóm cơ bị cứng lại khiến cho việc đi lại trở nên khó khăn hơn nhiều, sờ vào các cơ thấy cứng và chắc.
- Giảm vận động: Khi cử động thì các động tác của tay chân, nét mặt sẽ mất đi vẻ tự nhiên, biểu lộ tình cảm kém, mắt ít chớp. Người bị Parkinson thường vận động kém, run mạnh ở đầu ngón tay.
Ngoài những triệu chứng trên, thì người bị bệnh Parkinson còn đứng ngồi không yên, loạn cảm đau, phù, đầu ngón chân ngón tay tím tái, ảo thị, trầm cảm, hoang tưởng, sa sút trí tuệ,...
Hội chứng Parkinson có thể là biểu hiện của nhiều loại bệnh
Hội chứng Parkinson là một khái niệm chung để chỉ các bất thường về vận động tương tự như trong bệnh Parkinson run tay, đi lại chậm, cứng tay chân,...
Các rối loạn giống như Parkinson này có thể gặp trong nhiều bệnh cảnh, một số trong nhóm này đã được nghiên cứu kỹ hơn và có tên gọi riêng.
Ngoài các các triệu chứng vận động, trong hội chứng Parkinson còn có các triệu chứng khác: suy giảm khứu giác, rối loạn cảm giác, các triệu chứng tâm thần: trầm cảm, lo lắng, ảo giác, lãnh đạm, rối loạn tâm thần, sa sút trí tuệ, suy giảm nhận thức, rối loạn đường sinh dục, tiết niệu, tiêu hóa, rối loạn giấc ngủ, hay bất thường về huyết áp và tim mạch,… tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh.
Một số nguyên nhân gây hội chứng Parkinson bao gồm:
- Chấn thương não, nhiễm trùng não, viêm màng não, viêm não, khối u não, đột quỵ,…
- Rối loạn hệ thần kinh gây tổn hại đến quá trình sản xuất dopamin như: sa sút trí tuệ, bại liệt trên nhân tiến triển, thoái hóa hạch nền - vỏ não, chứng thoái hóa đa hệ thống,…
- Tác dụng của một số loại thuốc điều trị chống loạn thần (haloperidol), thuốc an thần (phenobarbital), thuốc điều trị co giật,…
- Chấn thương vùng đầu
- Ngộ độc carbon monoxide, cyanid, cồn, methanol,…
Điều trị chung hội chứng Parkinson và bệnh lý Parkinson
Các thuốc làm tăng nồng độ dopamine ở não là những thuốc đầu tay trong điều trị bệnh Parkinson. Với những bệnh nhân có hội chứng Parkinson, có thể sử dụng những thuốc tương tự để điều trị.
Tuy nhiên không phải trường hợp nào thuốc cũng có hiệu quả. Bác sĩ có thể sẽ kê đơn điều trị một số triệu chứng như thuốc chống trầm cảm, tiêm botox..
Bên cạnh đó, nên duy trì một chế độ tập thể dục hàng ngày để cải thiện độ cứng cũng như sự mềm dẻo của các cơ và khớp. Kết hợp điều trị lý liệu pháp, hoạt động trị liệu ngôn ngữ và liệu pháp nghề nghiệp.
- Đáp ứng điều trị:
- Các triệu chứng không vận động của hội chứng Parkinson không phải là đặc trưng của bệnh Parkinson và cũng không đáp ứng với liệu pháp điều trị bệnh Parkinson.
- Nếu như hội chứng Parkinson xuất hiện do tác dụng phụ của thuốc thì khi dừng thuốc các triệu chứng sẽ thuyên giảm.
- Nếu nguyên nhân là do tổn thương ở não có liên quan đến sử dụng ma túy, nhiễm trùng hay độc tố thì người bệnh sẽ không thể tự hồi phục khi ngừng sử dụng các tác nhân gây bệnh.
- Thử thuốc: Thuốc levodopa - tiền thân của dopamin có thể được sử dụng để theo dõi quá trình đáp ứng với thuốc của người bệnh. Người mắc bệnh Parkinson thường đáp ứng rất tốt với thuốc điều trị ở giai đoạn đầu nhưng thuốc gần như không giúp cải thiện hội chứng Parkinson.
Tóm lại: Trên thực tế lâm sàng, việc phân biệt hội chứng Parkinson và bệnh Parkinson tương đối khó khăn thậm chí phải tới khi bệnh chuyển sang giai đoạn nặng, các bác sĩ chuyên khoa sẽ dựa trên việc khai thác tiền sử của bệnh nhân kết hợp với các kết quả lâm sàng của một số xét nghiệm chẩn đoán để phân biệt chính xác.
Ngoài ra, chẩn đoán có thể sẽ được xem xét lại dựa vào tiến triển của bệnh, sự xuất hiện thêm các triệu chứng mới hoặc dựa vào sự đáp ứng với thuốc điều trị và tiên lượng của người bệnh.