“Phải lòng” Việt Nam

06-12-2008 15:17 | Văn hóa – Giải trí
google news

Con người, cảnh sắc và văn hóa của dải đất hình chữ S nằm kề bên bờ biển Đông xinh đẹp đã mê hoặc khiến nhiều du khách lưu luyến không nỡ rời xa.

Từ những phương trời xa xôi, họ đến với Việt Nam qua các tour du lịch khám phá, du lịch “ba lô”. Con người, cảnh sắc và văn hóa của dải đất hình chữ S nằm kề bên bờ biển Đông xinh đẹp đã mê hoặc khiến nhiều du khách lưu luyến không nỡ rời xa. Cũng có những người trong số đó trở lại mảnh đất Việt Nam với tình yêu và cả những ám ảnh trong tâm hồn...

Một chuyến, tôi cùng hai người Bỉ đi một vòng Đông Bắc - Tây Bắc, xuyên qua Hòa Bình dọc theo sông Mã vào Thanh Hóa, thăm Vinh, vào Huế ở 2 ngày với những chuyến thăm viếng “cổ điển”: Thành nội, lăng mộ, đi thuyền trên sông Hương thăm chùa Thiên Mụ. Hai người này nói với tôi “Chúng tôi phải lòng Việt Nam” (Nous sommes amoureuse du Vietnam). Một trong hai người, ông Jean Pol Boite đến nước ta lần thứ tám và khi thấy bản Tả Phìn (Sa Pa) người đẹp cảnh đẹp, ông hỏi thủ tục để năm sau trở lại ở bản vài ngày. Boite và Guy Lange bạn ông chụp ảnh không ngừng, cả chân dung, phong cảnh, cả những sinh hoạt đời thường: đàn chó con lách nhách chạy dưới gầm nhà sàn, bầy lợn sơ sinh đang mút vú mẹ, lò cất rượu rực đỏ... Đặc biệt, ông Boite rất thích chụp chân dung phụ nữ. Kể cả các cô gái ở các trạm thu phí trên đường bịt kín mặt, ông vẫn chụp và không bao giờ quên kèm theo lời khen “Em đẹp lắm”.

 Mê những sắc màu văn hóa...

Boite có lần nói với bạn:

- Phụ nữ Việt Nam cứu đất nước họ. Hồi chiến dịch Điện Biên, phụ nữ vận chuyển lương thực, đạn dược ra mặt trận. Họ làm đủ mọi việc, lại còn chăm sóc gia đình, con cái...

Rồi ông quay sang nói với tôi:

- Nếu có một cuộc đời khác, tôi sẽ lấy vợ Việt Nam.

Và lần này, khi vào tới Đà Nẵng, hai ông khách Bỉ đã tới thăm, tặng quà và tiền cho Tu viện Thánh Phaolô, ở đó các sơ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, có em bị gia đình bỏ rơi.

Khi tới Hội An chúng tôi tới thăm một nhà trẻ cũng do các sơ ở dòng tu này trông coi. Nhà trẻ bây giờ thoáng mát, rộng rãi là nhờ việc J.Pol Boite vận động tổ chức của ông giúp tiền sửa chữa ngôi nhà cũ nát của một người Pháp trước đây.

Trong một chuyến đi Tây Bắc, tôi có một khách duy nhất, người ở Montpelier (Pháp) trạc tuổi 35, 36. Đó là lần đầu tiên anh khám phá miền núi phía Bắc. Cũng giống nhiều người khách du lịch khác, anh Palitan chụp rất nhiều ảnh, say cả chụp người các dân tộc cũng như phong cảnh hùng vĩ, trữ tình của Tây Bắc. Sau khi đi từ Điện Biên sang Lai Châu, Palitan bảo tôi “Đúng như người ta viết, con đường này đẹp nhất Việt Nam”.

Sau chuyến đi ấy, Palitan trở lại Việt Nam 3 lần nữa. Ở ngoài Bắc, anh đi Ba Bể, Cao Bằng, Hà Giang. Lần thứ 4 anh đến Hà Nội, mời tôi đi ăn trưa, cùng đi với anh là chị Hồng Phúc vợ anh.

Palitan khoe với tôi cuốn an bum dày cộp gồm những tấm ảnh anh chụp được ở Đông - Tây Bắc. Anh nói:

- Tôi đã làm một quyển ảnh để giới thiệu về đất nước và con người của chúng ta. Tôi không thể giữ cái đẹp ấy chỉ mình mình hưởng.

Hồi đầu năm 2008, tôi đi cùng Robert Roulland, người Canada thăm Tây Bắc - Đông Bắc. Sau khi thăm Sơn La - Điện Biên chúng tôi về Sa Pa - Bắc Hà rồi từ đó đi Ba Bể Cao Bằng - Lạng Sơn.

Tôi đã đến Cao Bằng nhiều lần, thường chỉ đi thăm thác Bản Giốc hoặc hang Pắc Bó rồi quay về ngủ tại Cao Bằng. Lần này chúng tôi có 2 ngày dừng lại ở huyện Quảng Uyên, ngủ đêm ở một quán trọ đúng với nghĩa của nó. Tầng hai của ngôi nhà chia làm 3 khoang hở ngăn với nhau bằng một vách liếp, cửa sổ là các tấm liếp tre nhìn qua thấy cả màu xanh của lúa trên cánh đồng. Đó là những ngày rét nhất trong những năm gần đây, lại ở giữa vùng núi đó, nhiều lúc răng đánh lập cập mà chuyến đi của chúng tôi vẫn vui vì tình người ấm áp.

Địa điểm đầu tiên chúng tôi tới là bản Huổi Ky, xã Đạm Thủy, gần thác Bản Giốc. Đi từ đường ôtô nhìn qua một con suối, bản Huổi Ky thật đẹp với vẻ cũ kỹ già nua của nó. Các ngôi nhà sàn tầng dưới đều được vây bọc lại thành nhà hai tầng. Trong khi Roulland đang mải miết chụp ảnh thì tôi đã nghe có tiếng “Mời vào nhà dưới”. Nhiều gia đình muốn chúng tôi ghé vào và có người mách “Vào nhà cụ Đăm mà chơi, cụ ấy biết nói tiếng Pháp đấy”.

 ... và yêu những khuôn mặt hồn hậu, thân thiện.

Nhà cụ Đăm đang chuẩn bị cưới vợ cho con trai thứ hai của người con cả. Cháu đích tôn của cụ đang làm việc ở Malaysia, mới đây gửi về cho bố hai chục triệu để lo đám cưới cho em. Cụ Đăm, tám mươi tư tuổi, móm mém chào chúng tôi: “Bonjour” và tự giới thiệu mình còn có tên là Noa (noir có nghĩa là màu đen trong tiếng Pháp, cùng nghĩa với Đăm trong tiếng Tày). Cụ nói bập bõm tiếng được tiếng không. Cụ học tiếng Pháp từ thời tiểu học, nhà ở gần đồn Tây nên nói được tiếng Pháp và còn nhớ được một ít đến tận bây giờ. Khách và chủ đều hào hứng với cuộc chuyện trò bằng thứ ngôn ngữ hỗn hợp ấy. Cụ mời chúng tôi ở lại dự đám cưới cháu. Roulland đã có những bức chân dung đẹp của cụ già độc đáo này. Anh ngạc nhiên và vui trước lời mời của cụ Đăm.

Rời nhà cụ Noa, chúng tôi đi về phía cuối bản. Một bọn trẻ chừng trên dưới mười tuổi đang nô đùa trên đám ruộng đã gặt còn trơ gốc rạ. Roulland khen “trẻ em ở đây xinh đẹp quá” ông làm quen với các em, chụp ảnh rồi cho các em xem hình ảnh qua màn hình của máy rồi sà xuống chỗ một em gái đang nướng khoai, bứt gốc rạ chất thêm vào lửa. Khoai chín, em chia ba, cho tôi và Roulland cùng ăn. Bỗng có tiếng hỏi:

- Thích ăn khoai à?

- Vâng! Tôi ngoái lại. Người đàn ông vừa hỏi tôi trạc ngoài bốn mươi.

- Thế thì mời vào nhà chơi.

Rouland nghe tôi dịch lại, vui vẻ nhận lời.

Nhà anh Roạn - tên người đàn ông - cũng là nhà hai tầng. Tầng dưới ngay cửa vào là phòng khách, bằng một bộ sa lông, một tủ chè thấp, trên đặt một máy thu hình cũ kỹ... Anh pha nước mời chúng tôi, hỏi xem khách từ đầu tới, chúng tôi sẽ đi đâu, có ở lại bản chơi vài ngày không.

Ngay lúc ấy, chị Roạn từ trên gác xuống, xách một túi nặng khoai lang.

Anh Roạn nói:

- Mang về làm quà. Ở đây giờ không đói nữa, khoai chỉ để ăn chơi thôi.

Biết chuyện, Roulland tỏ vẻ ngạc nhiên. Còn tôi, lúng túng vì đến chơi không mang quà lại còn được cho khoai, tôi rút trong túi áo mấy gói cà phê sữa ra tặng chủ nhà. Anh Roạn cảm ơn nói:

- Tôi chưa bao giờ được uống cái này, cảm ơn nhé.

Dùng dằng mãi, thấy trời đã về chiều, chúng tôi rời bản ra về, trong khi Roulland còn vẻ luyến tiếc.

- Nếu ông muốn, tôi có thể đưa ông đi chơi bản từ sáng sớm đến tối. Ở đâu ông cũng sẽ được đón tiếp như đón một người bạn cũ.

Nhiều khách du lịch, nhất là người Pháp, đến Việt Nam như một cuộc hành hương trở về cội nguồn. Có người là thế hệ thứ ba của một cặp vợ chồng Pháp - Việt, có người thì vì bố hoặc chú bác đã có thời gian ở Việt Nam và đến giờ những kỷ niệm về Việt Nam vẫn còn ám ảnh người thân của họ.

Và còn có những người trở lại Việt Nam vừa vì tình yêu, vừa vì nỗi đau trong lòng.

Một lần tôi gặp ở Lai Châu hai khách du lịch Pháp đã ngoài bảy mươi. Người phiên dịch nói với tôi rằng đó là cựu chiến binh Pháp ở Điện Biên Phủ. Tôi tới gặp ông Michel - một trong hai người đó - xin phỏng vấn. Ông từ chối. Tôi hỏi họ của ông, ông nói:

- BVN

- Nghĩa là gì?

- Tôi không nói.

Tôi cười:

- Tôi chỉ muốn biết rằng ý nghĩa của những chữ này không xấu đối với chúng tôi.

- Không, tại sao lại xấu? Chúng tôi yêu Việt Nam. Tôi trở lại đây như trở về quê cũ.

- Bao nhiêu lần rồi, thưa ông?

- Lần này là lần thứ mười lăm và tôi sẽ còn trở lại nếu còn đủ sức.

- Ông không đi cùng gia đình ư?

- Chỉ đi cùng, lần đầu thôi... Có những nỗi đau và những tình yêu không thể chia sẻ.

- Tôi đã gặp nhiều cựu chiến binh Pháp khóc trên cánh đồng Mường Thanh.

- Khóc, không phải chỉ một lần.

- Hôm nay tôi đã thấy tro hài cốt ông Marcel Barbier cựu chiến binh Pháp rắc trên luống hoa ở đài tưởng niệm binh sĩ Pháp.

- Cũng còn nhiều người khác có nguyện vọng như vậy... Dù thế nào thì họ cũng đã yêu và gắn bó với mảnh đất này.

Mỗi người yêu Việt Nam một cách theo kiểu của họ. Và điều quan trọng là vì tình yêu đó, họ đã đến đây. Họ đến khám phá đất nước này. Còn tôi, khám phá về họ cũng là một niềm vui lớn trong công việc.

Bài và ảnh: Nguyễn Thị Nam


Ý kiến của bạn