Cách đây gần 20 năm, khi mà siêu âm, MRI và CT-scan, nội soi cùng những phương pháp chẩn đoán hình ảnh hiện đại chưa có nhiều, độ nhạy, độ chuyên và độ chính xác của các phương pháp chẩn đoán này chưa cao, việc chẩn đoán bệnh hầu như dựa vào khám lâm sàng, trình độ chuyên môn của và kinh nghiệm của bác sĩ khám bệnh. Do đó, niềm tin của bệnh nhân đặt trọn vào người thầy thuốc của mình và cũng ít cảnh dở khóc dở cười trong hoạt động khám chữa bệnh hàng ngày.
Ngày nay thì ngược lại, do sự phát triển như vũ bão của các phương pháp chẩn đoán hình ảnh nên những tổn thương hay bất thường dù rất nhỏ của các cơ quan bộ phận như: gan, thận, tim đặc biệt là van tim... cũng được phát hiện. Những kết quả ghi nhận được có khi làm cho bệnh nhân hoang mang và thầy thuốc lâm sàng rơi vào cảnh khó xử vì chưa có chuẩn mực nào rõ ràng được đưa ra làm ranh giới giữa sinh lý bình thường theo tuổi tác hay là biểu hiện của bệnh lý. Việc này càng khó xử nếu có sự phối hợp không rõ ràng giữa bác sĩ chẩn đoán hình ảnh và bác sĩ lâm sàng, làm cho bệnh nhân không biết tin ai. Nhưng theo quy định của ngành Y tế, kết luận của bác sĩ khám bệnh là kết luận cuối cùng và chính xác vì họ khám bệnh nhân một cách tổng thể, bởi vì họ khám người bệnh bao gồm rất nhiều yếu tố: tuổi tác, giới tính, tâm sinh lý, hoàn cảnh gia đình... chứ không phải khám một bệnh đơn thuần. Còn kết luận của chẩn đoán hình ảnh đưa ra chỉ có giá trị tham khảo và phải hiểu kết quả đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Ví dụ như: từ ngày có siêu âm, tỉ lệ bệnh nhân phát hiện có gan nhiễm mỡ tăng vọt, hầu như ai trên 40 tuổi đều có gan nhiễm mỡ. Tuy nhiên chúng ta phải tìm hiểu xem gan nhiễm mỡ độ mấy, có triệu chứng về gan mật đi kèm hay không vì đến tuổi này thoái hóa mỡ và tích tụ mỡ của các cơ quan như: gan, cơ, bụng... là hiện tượng sinh lý đương nhiên.
Chính vì vậy, để tránh hoang mang lo lắng vô cớ hay quá mức, bệnh nhân rất cần sự tư vấn kỹ của bác sĩ khám bệnh và luôn phải tâm niệm rằng những lời tư vấn ấy là chính xác và đáng tin cậy vì những bác sĩ này là người khám và hiểu bệnh nhân nhất. Còn bác sĩ chẩn đoán hình ảnh thì chỉ căn cứ trên kết quả có được mà kết luận thôi. Bác sĩ phải tư vấn kỹ càng, bệnh nhân phải tin tưởng bác sĩ cả hai phía cùng phối hợp mới tránh được tình trạng dở khóc dở cười cho bệnh nhân và cho thầy thuốc.

Ngay cả việc khám sức khỏe định kỳ hàng năm cho cán bộ công nhân viên các cơ quan xí nghiệp cũng cần có thêm mục tư vấn sau khám, để việc khám sức khỏe thật sự có giá trị, tránh rơi vào tình trạng khám cho có, mang nặng tính hình thức và đối phó. Tuy nhiên, theo chúng tôi biết hiện nay chỉ có 15 - 20% các cơ quan xí nghiệp yêu cầu điều này sau khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ nhân viên của mình.
PGS.TS. NGUYỄN HOÀI NAM