Hà Nội

Ông đóng tàu không số phớt lờ “3 lờ”

02-06-2018 02:16 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Nhờ đoàn tàu không số mà Đoàn 759 anh hùng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vận chuyển an toàn hàng chục nghìn tấn vũ khí đạn dược, thuốc men đến tận miền Tây và Đông Nam Bộ.

Hôm nay, con tàu không số đầu tiên đang được trưng bày trong Bảo tàng Hải quân nhân dân Việt Nam.

Bác Trịnh Xương đang giới thiệu hình ảnh con tàu không số đầu tiên.

Bác Trịnh Xương đang giới thiệu hình ảnh con tàu không số đầu tiên.

Người thiết kế những phương tiện đều là “lần đầu tiên”

Tuổi đã cao nhưng trí nhớ bác Trịnh Xương vẫn rất tốt. Bác kể là vào năm 1961, sau khi học ngành đóng tàu ở Thượng Hải, Trung Quốc trở về, bác được giao Giám đốc Phân viện Thiết kế tàu thủy thuộc Cục Cơ khí, Bộ Giao thông Vận tải thì một hôm có giấy của Văn phòng Phủ Thủ tướng mời lên làm việc. Ngày đó, địch bắt đầu đánh phá ác liệt nhằm chặt đứt tuyến đường vận chuyển của Đoàn 559 dọc theo dãy Trường Sơn. Cấp thiết phải mở thêm tuyến “đường mòn trên biển”. Việc cụ thể là đóng mới một loại tàu vỏ thép chuyên chở vũ khí, đạn dược cho chiến trường miền Nam. Hôm ấy, Phó Thủ tướng Phạm Hùng; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trần Văn Trà; Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Phan Trọng Tuệ... đã giao nhiệm vụ thiết kế tàu vỏ thép “không số” cho bác Trịnh Xương. Trước đó, Phân viện của bác đã thiết kế thành công tàu vỏ gỗ 35 tấn giả danh tàu đánh cá để chở vũ khí vào Nam Bộ. Bề ngoài con tàu giống hệt tàu đánh cá Gò Công của tỉnh Bến Tre, song có 2 đáy, đáy dưới chứa vũ khí và khi bị địch khám xét thì cán bộ đi theo cũng tránh xuống đấy. Bác Xương gọi con tàu gỗ này là “hầm bí mật trên biển”. Việc thiết kế tàu thép trọng tải gấp 3 lần tàu gỗ thì khó hơn nhiều. Và bác thực sự đóng vai trò của một tổng công trình sư thiết kế một con tàu chưa từng có, là sản phẩm đầu tiên thuở phôi thai ngành đóng tàu miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Từ nhiệm vụ cấp trên giao, bác đề ra các thông số chính của con tàu, rồi thiết kế cụ thể cấu hình vỏ thép, tính toán chọn máy tàu, ca-bin điều khiển, khoang chứa hàng... “Tổng công trình sư” Trịnh Xương ngày ấy đã cùng các kỹ sư: Lương Văn Triết, Đào Vũ Hùng, Đinh Ngọc Liễn... 1 tuần liền làm việc, ăn, ngủ, nghỉ tại chỗ, không bước chân ra khỏi căn phòng ở 120 Hàng Trống (Hà Nội). Nơi thiết kế gần trụ sở báo Nhân Dân, thời kỳ đó thấy có tăng cường công an canh gác, trên danh nghĩa là bảo vệ tòa báo, song sau này bác Xương mới biết, đội cảnh binh thực chất là bảo vệ việc thiết kế con tàu không số “tối mật” của Bộ Quốc phòng. Kích cỡ, thông số kỹ thuật con tàu đã được thể hiện đầy đủ trên bản vẽ: dài 32m, rộng 6,4m, mớn nước 2,4m, số thuyền viên 12, trọng tải 100 tấn, máy 250 sức ngựa. Tàu có thể chịu được sóng gió cấp 8-9, nhiên liệu đủ cho 20 ngày đêm. Bản thiết kế vừa được duyệt xong, chuyển gấp về Xưởng 3, Nhà máy đóng tàu Tam Bạc, Hải Phòng. Trong những ngày đóng con tàu mới, ông Đào Kim Quang - Giám đốc nhà máy cũng ăn ngủ tại hiện trường giống như những người bạn thiết kế trên Hà Nội và con tàu đã được hoàn thành với thời gian kỷ lục, xong trên bờ là hạ thủy ngay. Còn chất lượng tàu đã được kiểm chứng sau này. Đoàn 759 Hải quân có chuyến vượt biển bằng tàu vỏ thép không số đầu tiên vào chiến trường, đã “đi đến nơi về đến chốn”. Thời kỳ đó, trong vòng 3 tháng, Nhà máy Tam Bạc hạ thủy liền 13 con tàu đều không sơn số hiệu ngoài vỏ tàu. Thời chống Mỹ, Phân viện mà sau này là Viện Khoa học công nghệ tàu thủy do bác Trịnh Xương làm Giám đốc còn thiết kế được những cây cầu độc đáo, chưa hề thấy trong sách giáo khoa về cầu đường. Một lần, Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ gợi ý: Trong điều kiện chiến trường, nhiều khi cầu thép cứng mất nhiều công chế tạo, lắp ráp, lại dễ bị máy bay địch phát hiện, phải chi nên có cây cầu dùng tuyến dây cáp  dẫn cho xe ôtô vượt qua những đoạn sông, suối hẹp. Từ ý tưởng ấy,Viện Khoa học công nghệ tàu thủy của bác Trịnh Xương đã kết hợp với kỹ sư Đặng Hương thuộc Bộ Tư lệnh Công binh; TS. Nguyễn Văn Hường của Đại học Bách khoa Hà Nội thiết kế, thi công cây cầu cáp đầu tiên tại Cầu Diễn (Hà Nội). Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, cây cầu cáp giống như mô hình cầu cáp ở Cầu Diễn đã được xây dựng ở ngầm vượt sông Tà Lê trên tuyến vận tải Tây Trường Sơn.

Về cầu vượt sông, Viện trưởng Trịnh Xương còn có một sáng kiến khác cũng rất độc đáo. Máy bay địch dễ dàng nhận diện, thả bom, phóng tên lửa đánh hỏng cầu phao trên một số quốc lộ ở miền Bắc, nhóm nghiên cứu của bác đã thiết kế một loại cầu phao có cách ngụy trang đặc biệt. Khu vực cầu vượt sông được bố trí ở chỗ kín đáo, hệ thống tời, cáp, ròng rọc để có thể dìm cả tuyến phao xuống dưới mặt nước khoảng 0,4mét. Như vậy, ôtô dễ dàng lội qua mà trên cao máy bay địch không thể phát hiện. Các năm 1970-1971, tại khúc sông gần thị xã Phủ Lý (Hà Nam) đã tồn tại một cầu phao ngụy trang bằng nước như thế.

Cũng trong thời chống Mỹ, ở những bến phà Hàm Rồng, Bến Thủy, sông Gianh, bến Hầu, bến Ròn... trên quốc lộ 1, bộ đội, thanh niên xung phong hay bắt gặp những chiếc ca nô mang cái tên ngồ ngộ: ca nô con cóc, ca nô nòng nọc. Đó cũng là ý tưởng sáng tạo của Viện trưởng Trịnh Xương. Ca nô lai phà thường có chiều dài 12m hay 16m, khi đưa trên đường bộ đến nơi sử dụng khó đặt trên thùng xe tải thông thường, lại khó vào những “cua” gấp. Bác Xương tính toán cắt đôi vỏ ca nô thành hai nửa để dễ vận chuyển. Đến nơi hạ thủy thì dùng bu lông ghép lại thành một chiếc ca nô “ngon lành” (tất nhiên sức lai phà của ca nô 90 hay 135 sức ngựa vẫn được giữ nguyên). Những ca nô “cụt đuôi” như thế dân gian gọi là ca nô “con cóc” hay “con nòng nọc”. Mỗi chiếc phà ở nơi trọng điểm bắn phá của địch cũng được bác tính toán cắt thành nhiều phao, rồi các phao cũng được ghép lại bằng bu lông. Điều này chẳng những dễ vận chuyển từng phao nhỏ mà khi máy bay địch bắn thủng một phao thì tháo ra thay thế ngay bằng phao khác, phà không thể bị chìm. Thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá ác liệt trên miền Bắc, xưởng chế tạo ca nô con cóc; con nòng nọc; phà cắt rời được đặt ngay dưới lùm cây trong Công viên Thống Nhất, Hà Nội, xong lô hàng nào là chở ngay vào tuyến lửa.

Còn một loại ca nô đặc biệt này nữa. Những năm 1971-1972, Mỹ thả bom, mìn, thủy lôi từ trường phong tỏa cảng Hải Phòng và một số luồng lạch vận tải trên sông biển. Viện Khoa học công nghệ tàu thủy của bác Trịnh Xương đã kết hợp với một số cơ quan nghiên cứu trong quân đội chế tạo ca nô phóng từ phá mìn, thủy lôi rất hiệu quả. Sau này, khi Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam, Mỹ đưa sang một loại ca nô phóng từ để cùng ta rà phá mìn, thủy lôi tuy trang bị hiện đại hơn, song tính năng, hiệu quả rà phá cũng không hơn những ca nô phóng từ tự chế trước đấy. Và công trình tập thể phá bom từ trường, thủy lôi đã được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên năm 1996.

Bác Trịnh Xương (bên trái) và bác Trần Xuân Hoài cùng trong buồng bệnh ở Bệnh viện Hữu Nghị.

Bác Trịnh Xương (bên trái) và bác Trần Xuân Hoài cùng trong buồng bệnh ở Bệnh viện Hữu Nghị.

Phớt lờ... “3 lờ”

Thăm bác Trịnh Xương ở Bệnh viện Hữu Nghị, tôi hỏi thăm về tình hình bệnh tật, bác liền vén ống quần chỉ vào một bên chân mình, nói: Bắt đầu từ đây đấy anh ạ. Tôi nhìn thấy trên da chân bác bị tụ máu nhiều thành những mảng dày màu tím thẫm và bác bảo là hiện bác sĩ đang kết hợp với xét nghiệm để tìm nguyên nhân...

Khoảng nửa tháng sau, bác Hoài vui vẻ cho biết, thầy thuốc đã bước đầu tìm ra căn nguyên của bệnh và thời gian ở bệnh viện đã có một phác đồ điều trị riêng, trong người khỏe và những vệt tím thẫm ở chân đã tan gần hết rồi. Bác gái ngồi bên còn cho tôi biết thêm là, bác trai lâu nay vốn sinh hoạt và làm việc điều độ, từ ngày biết về căn bệnh mới của mình lại càng ăn uống, sinh hoạt điều độ hơn. Và “ông nhà tôi vốn hay đọc sách, viết lách làm thơ, từ ngày xuất viện hình như lại càng làm thơ hăng hơn”. Tại sao lại “hăng hơn?”, tôi liền hỏi thì bác gái trả lời ngay: Là vì ông ấy luôn sống lạc quan, thích làm thơ tiêu khiển. Bác Xương tiếp lời bác gái: Tôi làm thơ vui ấy mà, mỗi lần xong một bài là đọc bà ấy nghe, cả hai cứ cười vui suốt. Nghe vậy, bác Trần Xuân Hoài bảo với người bạn già sau nhiều năm gặp lại: Giờ chúng em muốn nghe sáng tác mới nhất “cười vui suốt” của bác. Bác Trịnh Xương liền cười tủm tỉm đọc: Tuổi già sợ nhất “3 lờ”/Lẫn, lòa, nằm liệt đợi chờ đi xa/Luật trời đâu chỉ riêng ta/Sinh lão bệnh tử âu là nghiệp chung/Thà rằng vẫn cứ ung dung/Ung dung tự tại không trông, không chờ/Phớt lờ, đâu ngại “3 lờ”/Để tâm sáng mãi, chẳng mờ trăng soi...

Tôi thì chợt nghĩ: Cái tâm của bác Trịnh Xương từ trẻ đến già vẫn sáng như trăng đêm rằm và giờ đây, cùng với sự lạc quan, yêu đời luôn là liều thuốc thần diệu để bác vượt qua bệnh tật!


Phạm Quang Đẩu
Ý kiến của bạn