Bên cạnh những đèn lồng lung linh ánh sáng, những bức tường rêu phong phố cổ, không hiếm những khách du lịch biết đến một Hội An khác, nhẫn nại, chắt chiu từ khó nhọc làm nên vị mặn mòi của cuộc sống. Nằm về phía bờ Nam của đô thị cổ Hội An, làng Cẩm Nam được bồi lên bằng phù sa của con sông Hoài. Bà con địa phương đôi khi gọi Cẩm Nam bằng cái tên dân dã, dễ thương: Cồn Hến, bởi nghề cào và chế biến món hến đã trở thành đặc sản được nhiều khách du lịch biết đến. Và đằng sau nó, nhiều cuộc đời gắn với nghề...
Nghề hến là nghề thậm no…
Cồn đất thơ mộng được bao bọc bởi những luỹ tre xanh nằm giữa dòng chảy của con sông Hoài, phù sa bồi đắp hằng năm nên cây trái thứ gì cũng ngon. Đây cũng được ví là cái "mỏ hến" nổi tiếng với vị ngọt và thịt bùi hơn so với hến ở những vùng khác bởi Cẩm Nam chính là vùng đất hạ lưu nên dễ có sự giao nhau của 2 nguồn nước mặn, ngọt mà người dân quen gọi là nước "xòa hai".
Nước sông ngày càng đục khiến số lượng hến cào được ngày càng ít. |
Ông Bông cũng không thể biết được chính xác nghề cào hến của làng có từ bao giờ. Chỉ biết khi còn rất bé, ông đã thấy ông nội và cha cầm cào đứng kéo dưới sông. Lớn lên một chút, ông cũng theo cha cầm cào ra sông cào hến về nấu rồi đem đi bán. "Thời của chú, người ta đi cào hến rất thủ công, cực lắm cháu ơi. Canh chừng lúc nào nước ròng thì mọi người bắt đầu tròng cái cào vào người rồi cứ thế ngâm mình dưới sông, đi giật lùi cào hến rồi chờ con nước xuống nên không hiếm những khi người làng hến phải đi cào từ 9 giờ đêm đến 3 giờ sáng. Bù lại, hến nhiều vô kể, chẳng ai phải tranh giành chỗ tốt như bây giờ, cứ kéo ra sông cắm cào xuống cát chừng dăm phân rồi cứ thế mà kéo chân đi thụt lùi, tay giật đều chiếc cào là có hến rồi" - ông Bông bùi ngùi nhớ chuyện ngày xưa. Còn ông Huỳnh Hỉ - một chủ lò hến khác của Cẩm Nam thì cho biết, cách làm dụng cụ cào hến bây giờ không công phu như ngày xưa. Trước đây, muốn có được dụng cụ để cào hến, phải đặt mua mây từ những người đi chợ Nồi. Giang tre cũng phải chọn vừa đủ già, vót xong, chẻ tre ngâm cho bén nước, vớt lên phơi khô, bện lại cho đều rồi luồn vào cái khuôn mây cho vừa vặn để đạt được độ dẻo dai. Bây giờ, người ta làm cái khuôn xúc hến bằng lưới, cán cào cũng được làm dài hơn rồi cứ thế đứng trên ghe máy chống sào mà kéo, không phải dầm mình trong nước lạnh như trước.
Các công đoạn rửa hến, giật để lấy sịn và đãi hến. |
Bao giờ cho đến… ngày xưa
Hồi tưởng lại cái thời xa xưa, xa lắc, khi khúc sông ven thôn 2 Cẩm Nam được mệnh danh là mỏ hến, ông Bông có vẻ tiếc nuối: "Ngày xưa, người ta làm hến, nấu hến không như bây giờ nên hến ngon hơn nhiều. Hồi đó, người ta nấu hến với ít nước thôi, sau đó để cả con hến vào chung nước hến bỏ vào các hũ làm bằng sành gánh đi bán khắp nơi. Tuy hơi cực, nhưng được cái hến ăn rất ngon và đậm đà lắm. Bây giờ, nhờ du lịch, người làm hến bán được nhiều tiền hơn, nhưng để phục vụ khách hàng, cùng với việc mất mùa hến như mấy năm nay, cách nấu hến và pha chế cũng không còn được như thế. Thay vì nấu ít nước, người ta phải đổ nhiều nước hơn để bán lấy lời. Đã thế, lại còn ép khô hến ra riêng, nước ra riêng, vì thế mà không còn được ngon đặc biệt như trước đây. Mà hồi đó, bọn tui cào thủ công, nên chỉ lấy hến to, còn những con hến nhỏ đều lọt xuống cào. Nhờ vậy, hến có điều kiện sinh sản. Không như bây giờ, người ta cào hến theo công nghệ mới, lái ghe máy quét một vòng những khúc sông rồi chống sào, dùng cào làm bằng lưới nhỏ, cứ thế mà xúc hến không để sót con nào. Thế nên, hến càng ngày càng ít. Cộng thêm vào đó, nguồn nước bị ô nhiễm nặng nên nước thường đục, hến không sinh sản được, mất mùa mấy năm ni rồi...".
Đỏ lửa quanh năm là mong ước của nhiều chủ lò nấu hến. |
Phóng sự của Hà An