Những năm cuối thập niên 90 và những năm 2000, HIV/AIDS thực sự trở thành một "cơn bão" tàn phá biết bao gia đình.
Đối với người thầy thuốc trẻ Đỗ Duy Cường, ký ức về căn bệnh thế kỷ lúc bấy giờ là một nỗi ám ảnh, gắn liền với sự bất lực và nỗi sợ hãi bủa vây:
"Năm 1995, khi tôi đang học bác sĩ nội trú chuyên ngành truyền nhiễm ở Bệnh viện Bạch Mai thì xuất hiện bệnh nhân nhiễm HIV đầu tiên của Hà Nội. Lần đầu tiếp xúc, chúng tôi không dám tới gần hoặc chạm tay vào họ vì sợ lây. Lúc đó HIV được báo chí mô tả gắn liền với sự chết chóc và tệ nạn ma túy, mại dâm rất đáng sợ. Bệnh nhân được "nhốt" vào một khu riêng biệt lập, mỗi lần khám bệnh chúng tôi phải đeo găng tay, khẩu trang kín mít, nhanh chóng rời đi vì chỉ sợ virus HIV nó "bay vào người mình", ông nhớ lại.
Sự sợ hãi không chỉ đến từ bệnh viện mà còn từ ngoài xã hội, nơi căn bệnh gắn liền với sự xa lánh và kỳ thị khủng khiếp. Vị bác sĩ trẻ khi đó phải đối mặt với áp lực vô hình: "Bản thân tôi cũng bị kỳ thị vì công việc hàng ngày gắn liền với bệnh nhân nên đi đâu cũng bị gọi là bác sĩ Cường "HIV", ông Cường "lây"... Có lần khi bắt tay giới thiệu nói mình làm ở khoa truyền nhiễm thì người ta lại rụt tay lại... Đó là những khó khăn và áp lực rất lớn".
PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường thăm khám cho bệnh nhân.
Tuy nhiên, vượt qua những áp lực cá nhân ấy, chính những hình ảnh đau thương tận cùng đã biến nỗi sợ thành sự dấn thân. Trong hành trình làm luận án tiến sĩ nghiên cứu về tử vong do HIV ở tỉnh Quảng Ninh tại Việt Nam, ông đã chứng kiến "cơn bão" HIV tàn phá khủng khiếp.
"Có lần chúng tôi tới thăm một gia đình thấy trên bàn thờ có 5 bức ảnh gồm bố, con trai, con rể… đều mất rất thương tâm vì đều do ma túy và HIV gây ra. Hoặc đến thăm một nghĩa địa có toàn vòng hoa trắng do các thanh niên trẻ chết do HIV/AIDS. Tôi không thể quên hình ảnh cả một hội trường toàn phụ nữ góa chồng và những đứa trẻ bị nhiễm HIV ở huyện đảo Vân Đồn đợi chúng tôi cả một ngày trời chỉ để mong nhận những viên thuốc ARV…", giọng bác sĩ Cường chùng xuống.
Chính từ những nỗi đau của bệnh nhân và người thân gia đình của họ đã thôi thúc bác sĩ Cường muốn dành cả sự nghiệp của mình để nghiên cứu và tìm ra những biện pháp để cứu chữa cho họ.
Năm 2012, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về HIV tại Viện Karolinska (Thụy Điển) - nơi ông tận mắt chứng kiến người nhiễm HIV được chăm sóc nhân văn và sống khỏe mạnh như với một bệnh mạn tính – tiến sĩ Cường đã từ chối cơ hội làm việc với mức thu nhập hấp dẫn để trở về Việt Nam.
Ông nói, đó là lựa chọn từ một tâm nguyện giản dị: "Nếu ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, thì gian khổ sẽ dành cho ai? Nếu ai cũng sợ bệnh lây nhiễm, thì ai sẽ ở lại chăm sóc, đồng hành cùng những người mang trong mình nhiều nỗi niềm khổ đau ấy?".
Năm 2009, với sự hỗ trợ của Bộ Y tế và các tổ chức quốc tế, tiến sĩ Đỗ Duy Cường bắt tay xây dựng Phòng khám Ngoại trú dành cho bệnh nhân HIV tại Bệnh viện Bạch Mai. Những ngày đầu đầy gian nan: cơ sở vật chất thiếu thốn, nhân lực hạn chế, và đặc biệt là rào cản kỳ thị nặng nề. Nhưng thử thách lớn nhất, theo ông, là làm sao gieo lại niềm tin cho những người đang ở "hố sâu tuyệt vọng".
Từ đó, sự sống dần được hồi sinh - hàng nghìn bệnh nhân được tiếp cận điều trị bằng thuốc ARV đặc hiệu, miễn phí, mở ra cơ hội sống khỏe mạnh và bình đẳng hơn.
Sau khi uống thuốc, họ bắt đầu tăng cân, hết nhiễm trùng cơ hội, da dẻ dần trở lại hồng hào và không có gì vui bằng niềm hạnh phúc của họ được quay trở lại công việc, sinh hoạt bình thường. Nhiều người còn tìm được hạnh phúc, lấy vợ, sinh con mà không bị lây nhiễm HIV.
Một trong những câu chuyện cảm động là đôi vợ chồng anh L. và chị P. - những bệnh nhân đầu tiên của phòng khám.
Chia sẻ với phóng viên, chị P. hồi tưởng về những ngày tháng bi kịch vào đầu những năm 2000, thời điểm căn bệnh còn bị xem là "án tử hình" và gắn liền với sự xa lánh của cả cộng đồng, thậm chí cả người thân trong gia đình.
"Thời điểm mình phát hiện bị nhiễm HIV từ người yêu là năm 1999, lúc đó mình sốc vô cùng vì ngày đó ai cũng nghĩ nhiễm HIV là chỉ sống được vài tháng. Cùng với sự kỳ thị nặng nề, hai vợ chồng đã rơi vào tuyệt vọng và tìm đến cái chết bằng cách uống thuốc chuột tự tử vào năm 2003. May mắn là chúng tôi được cứu sống ngay sau đó", chị P. nói.
PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường: Nếu ai cũng sợ bệnh lây nhiễm, thì ai sẽ ở lại chăm sóc, đồng hành cùng những người mang trong mình nhiều nỗi niềm khổ đau ấy?
Cuộc đời tưởng chừng như đã kết thúc, nhưng một tia hy vọng lớn đã mở ra khi họ gặp bác sĩ Cường năm 2007. Với sự tận tâm và thái độ nhân văn, bác sĩ Cường không chỉ là người thầy thuốc mà còn là ân nhân: "Khi gặp được các bác sĩ ở Bệnh viện Bạch Mai nói chung và bác sĩ Cường nói riêng, chúng tôi mới thực sự được cứu lần nữa. Bác sĩ đã tận tâm hết lòng vì bệnh nhân có H như chúng tôi mà không hề phân biệt. Bác sĩ Cường luôn ân cần, động viên và giúp đỡ chúng tôi vượt qua nỗi đau bệnh tật và tư vấn làm sao để có một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Bác sĩ Cường đã luôn coi những bệnh nhân của phòng khám như người nhà.
Có lần tôi bị dị ứng nặng với thuốc ARV, toàn thân nổi mẩn đỏ, ngứa rát, da bong tróc, người gầy rộc đi. Trong lúc tuyệt vọng nhất, bác sĩ Cường đã kiên trì theo dõi, dày công nghiên cứu để tìm ra một phác đồ điều trị riêng phù hợp cho tôi. Nói về bác sĩ Cường, không ngòi bút nào diễn tả hết - anh xứng đáng với câu 'Lương y như từ mẫu'. Anh không chỉ cứu người bằng chuyên môn, mà còn bằng cả tấm lòng, sự tận tụy và gần gũi như người thân. Với chúng tôi, bác sĩ Cường không chỉ là thầy thuốc, mà là ân nhân, là điểm tựa giữa những tháng ngày tăm tối."
Đối với anh L, chồng chị P., ngoài nhiễm HIV anh còn bị xơ gan mất bù do có bệnh đồng mắc viêm gan C... Đã nhiều lần anh "chết đi, sống lại", da vàng, bụng chướng to, phù 2 chân... gia đình đã phải chuẩn bị hậu sự. Nhưng khi vào viện gặp bác sĩ Cường, chỉ sau ít ngày triệu chứng lại cải thiện rõ rệt, anh lại được xuất viện nhờ sự chăm sóc điều trị công phu, tận tâm bằng trái tim cao cả của người thầy thuốc đã giúp anh "hồi sinh".
Hiện tại, sau gần 20 năm điều trị, với sức khỏe tốt và niềm tin vào cuộc sống mới, anh chị đã mở lòng chia sẻ những thông điệp chân thành nhất đến mọi người: "Giờ đây sức khỏe vợ chồng mình rất ổn định. Mình muốn nhắn nhủ với mọi người rằng: Dù có bệnh tật nặng đến đâu hãy tự tin sống vì cuộc đời đẹp và đáng sống lắm. Hãy có ý thức tự bảo vệ mình và bảo vệ cộng đồng, vì giờ đây có bác sĩ tốt cùng với thuốc tốt thì mình có thể sống bình thường và hạnh phúc như bao người khác".
Phòng khám dưới sự dẫn dắt của PGS.TS.BS. Đỗ Duy Cường nhanh chóng trở thành mô hình kiểu mẫu ở miền Bắc nhờ nguyên tắc: Khám, tư vấn điều trị tận tình, được tôn trọng và đặc biệt là bảo mật danh tính tuyệt đối. Nơi đây không chỉ là nơi điều trị mà còn là bến đỗ hy vọng, là nơi người bệnh được cảm thấy an toàn và được sống là chính mình.
Viện Y học Nhiệt đới Bạch Mai với slogan "Điều trị và chăm sóc người bệnh bằng cả trái tim" không chỉ là khẩu hiệu mà là kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Bởi nơi đây luôn tiếp nhận và điều trị bệnh nhân nhiễm HIV nặng nhập viện ở giai đoạn muộn, suy giảm miễn dịch nặng với nhiều nhiễm trùng cơ hội phức tạp (lao, nấm, viêm gan virus B/C, nhiễm trùng da, mô mềm, suy kiệt...).
Đơn cử như trường hợp bệnh nhân nam 62 tuổi, một người nông dân thuần phác, đến khám trong tình trạng suy kiệt, sốt kéo dài, nhiễm nấm huyết, lao đại tràng, mức độ suy giảm miễn dịch nặng chỉ còn 3 tế bào CD4/mm³. Tuy nhiên, chỉ sau 2 tuần điều trị bằng thuốc kháng virus và các thuốc nhiễm trùng cơ hội, bệnh nhân đã được xuất viện và trở về sinh hoạt bình thường với gia đình và cộng đồng.
PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường đã đối diện với nỗi sợ hãi nghề nghiệp bằng sự thấu cảm và hành động: "Với những người nhiễm HIV, họ nhạy cảm lắm, trong sâu thẳm họ sợ người khác kỳ thị, đặc biệt đối với nhân viên y tế họ luôn sợ có sự khoảng cách bị kỳ thị, bị bỏ rơi... Do đó, tôi thường xuyên căn dặn các đồng nghiệp và học trò khi thăm khám, thông qua cái bắt tay, ánh mắt, cử chỉ, lời nói... làm thế nào để người bệnh cảm nhận và đặt hết niềm tin và tính mạng của họ vào người thầy thuốc, để họ yên tâm hợp tác điều trị".
Chính thái độ nhân văn, khoa học mà qua nhiều năm công tác và cống hiến này đã giúp đội ngũ của PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường vượt qua nỗi sợ hãi phơi nhiễm nghề nghiệp, biến địa chỉ của phòng khám ngoại trú HIV của Viện Y học Nhiệt đới Bạch Mai trở thành bến đỗ hy vọng, là "mắt xích" quan trọng đưa tỷ lệ virus dưới ngưỡng ức chế tại phòng khám lên trên 98%, được Bộ Y tế ghi nhận và các tổ chức quốc tế đánh giá cao, là điểm sáng toàn cầu trong công tác phòng chống HIV/AIDS.
Ở Việt Nam hiện nay với sự thay đổi hình thái dịch tễ học của lây nhiễm HIV, từ việc lây chủ yếu qua đường tiêm chích ma túy cách đây 20 năm, giờ đây chủ yếu lây qua con đường quan hệ tình dục, đặc biệt trong các đối tượng nam giới trẻ tuổi. Do đó, với vai trò của một bác sĩ điều trị và là một người quản lý, PGS.TS. BS Đỗ Duy Cường luôn trăn trở làm sao để không chỉ tìm ra các biện pháp điều trị hữu hiệu nhất giúp cứu sống bệnh nhân mà còn tìm ra các biện pháp phòng bệnh ngăn ngừa lây lan HIV trong cộng đồng.
Với những kinh nghiệm tích lũy được, PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường đã tham gia giảng dạy, nghiên cứu, chủ trì nhiều đề tài về HIV cũng như có nhiều bài báo khoa học xuất bản trong nước và quốc tế, trở thành một trong những chuyên gia hàng đầu về HIV/AIDS ở Việt Nam.
Ông đã đi nhiều nơi, tham dự nhiều hội thảo trong nước và quốc tế về HIV và là thành viên của mạng lưới nghiên cứu HIV/AIDS châu Á - Thái Bình Dương. Ông luôn đồng thời sát cánh cùng các đồng nghiệp và cơ quan quản lý chuyên môn của Bộ Y tế, Cục Phòng chống HIV/AIDS tham gia xây dựng Hướng dẫn Quốc gia về điều trị HIV/AIDS.
Thành tựu lớn nhất mà PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường và đội ngũ tự hào, không chỉ là kéo người bệnh khỏi "hố sâu tuyệt vọng" mà còn là sự tái hòa nhập cộng đồng và "hồi sinh" ngoạn mục.
"Rất nhiều gia đình, khi thấy con em mình nhiễm HIV với các nhiễm trùng cơ hội nặng, lở loét, đã đến gặp tôi xin về vì không còn hy vọng cứu chữa... nhưng cuối cùng hầu hết đều được cứu sống và khỏe mạnh trở lại. Hay gần đây có thanh niên mới 25 tuổi, chạy xe ôm, cậu ấy đã mồ côi do nhiễm HIV từ cha mẹ nay phải nhập viện vì nhiễm trùng cơ hội và tác dụng phụ của thuốc.
Hơn 20 năm phải sống với HIV với gánh nặng bệnh tật và nhiều vấn đề khó khăn về tâm lý xã hội, cậu thanh niên này gần như không còn đủ sức trụ vững. Nhưng chúng tôi phải cố gắng đến cùng để cứu sống và kêu gọi hỗ trợ để cậu ấy yên tâm điều trị.
Có những bệnh nhân khi nhập viện cân nặng chỉ còn hơn 30kg, da bọc xương, tưởng chừng không qua khỏi, nhưng sau một thời gian, khi gặp lại nhìn họ khỏe mạnh, có người đã lấy vợ/chồng, sinh ra con cũng không bị nhiễm HIV. Nhìn họ khỏe mạnh, hạnh phúc, tôi thực sự không thể nhận ra họ nữa, họ đã hồi sinh một cách ngoạn mục!", PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường xúc động kể.
Với những kết quả đã đạt được, Việt Nam được xếp vào 1 trong 4 quốc gia có chất lượng điều trị HIV/AIDS đứng hàng đầu thế giới, cùng với Anh, Đức và Thụy Sĩ.
Việt Nam đang tự tin tiến tới chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030. Với kinh nghiệm của một chuyên gia đầu ngành, PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường muốn gửi gắm thông điệp lớn nhất đến cộng đồng là xóa bỏ kỳ thị, phân biệt đối xử:
- "Đừng chết vì thiếu hiểu biết. Điều trị đúng cách thì bệnh nhân sẽ có cơ hội sống như người bình thường". HIV không đáng bị kỳ thị, không bị mang là "án tử hình" mà họ có quyền được sống.
- "HIV giờ được coi là một bệnh mạn tính, tiên lượng còn tốt hơn cả ung thư". Người bị nhiễm HIV giai đoạn nặng không được điều trị ví như cây héo rũ, mình tưới nước thì sẽ tươi tốt trở lại".
- "Hãy mở rộng và đón nhận người nhiễm HIV, họ không phải người xấu và không làm hại gì cho xã hội". Chỉ khi nào xóa bỏ kỳ thị, coi bệnh nhân nhiễm HIV như những bệnh khác thì họ mới có chất lượng cuộc sống tốt, như vậy thì mới tiến tới mục tiêu loại bỏ được HIV".
- "Nhiễm HIV chưa phải là hết". Những tiến bộ của y học và sự tận tụy của đội ngũ thầy thuốc đã tạo nên "Lối về" vững chắc, giúp người bệnh bước tiếp, sống vui khỏe, có ích và cùng Việt Nam tự tin tiến tới chấm dứt dịch bệnh AIDS trong tương lai gần.









