Bác sĩ Vũ Văn Dzi (Oklahoma, Mỹ) (VVD): Tiếng Việt, stress dịch là gì, anh nhỉ?
Hữu Ngọc: (H.N.): Tiếng Anh stress tuy khó đọc, nhưng vẫn để nguyên trong Từ điển tiếng Việt vì không có từ tương ứng, và định nghĩa là: tổng thể những rối loạn tâm sinh lý xay ra đột ngột do nhiều nguyên nhân khác nhau, như “sốc”, xúc động mạnh, lao lực quá sức... Hình như từ những năm 1970, ở Mỹ đã báo động stress, vì thấy tử vong cao do bệnh tim mạch có liên quan đến cuộc sống công nghiệp phát triển căng thẳng, kiểu sống không lành mạnh như ăn uống thái quá, hút thuốc nhiều, ít vận động.
VVD: BS. H.Selye, người Canada gốc Áo đã tìm ra cơ chế của hiện tượng stress, có thể quan niệm là tình trạng khẩn trương, căng thẳng. Năm 1950, ông đã chính thức sử dụng từ stress. Sau đó, TS. Cannon đưa ra thuyết Fight or Flight (đấu tranh hay bỏ chạy). Từ đó đến nay, những tổn hại trên cơ thể do stress gây ra đã được nghiên cứu kỹ.
HN: Stress là tai họa. Vậy mà sao có lúc, một số xí nghiệp Pháp lại cho là nên khai thác cạnh khía “tích cực” của stress, gây stress, tức là gây phấn chấn để có không khí thi đua, lợi dụng bản năng hiếu thắng của con người, lợi dụng nó vào việc đẩy mạnh sản xuất (theo Fracoslopie, 1997). Nhưng mặt trái là gây lo âu, căng thẳng vì sợ thất bại. Chắc thể nghiệm ấy không ổn!
VVD: Dĩ nhiên, chẳng cần con người phải gây ra, xã hội hiện đại đang gây stress một cách khủng khiếp.
HN: Tôi được biết 28% dân châu Âu tự nhận là bị stress vào cuối thế kỷ 20. Đời sống văn minh vật chất đã đem lại cho phương Tây những phúc lợi lớn về sức khoẻ, khiến tuổi thọ ngày một cao... Nhưng bên cạnh đó, những thay đổi từ bên ngoài gây hại về tinh thần, stress mạn tính (chronic mental stress) kéo dài.
VVD: Mỗi khi cơ thể phải đối phó với stress dài thì hệ thống nội tiết gồm các hạch như thượng thận tiết ra những hormone (nội tiết tố) như cortisol, adrenaline, gây ra bệnh tật. Vào những tháng cuối năm, đời sống càng căng, nhất là khi bùng nổ cuộc khủng hoảng kinh tế lớn toàn cầu. Nhiều người mất việc làm, mất nhà, xe, gia đình lục đục ly hôn... Năm 2006 có 56 % dân Mỹ bị stress vì kinh tế, năm 2007 có 73%, năm 2008 thì 81%.
HN: - Anh vừa nói một số nội tiết tố tạo nên stress?
VVD: Trong số đó, chính là cortisol. Bình thường, chất này là một loại hormone tốt, cần cho cơ thể, nhưng nếu những hạch thượng thận bị kích thích kéo dài thì sẽ gây ra cao huyết áp, đau tim, tai biến mạch máu não. Ở Mỹ, đau tim tăng một phần do thời tiết lạnh, ăn uống vui chơi quá độ qua các lễ hội cuối năm: Tạ ơn Chúa, Noel, Tết... Cortisol lên cao cũng làm cho hệ thống miễn dịch (immune system) suy yếu. Khi bị stress kéo dài, các tế bào miễn dịch giảm sút, không chống nổi cảm, cúm, bệnh nhiễm trùng. Stress còn gây ra viêm dẫn đến các bệnh kinh niên như tiểu đường, đau tim, sưng chân răng, đau lưng, viêm khớp. Nó ảnh hưởng cả đến hệ thống tiêu hoá như làm tăng chất vị toan acid dẫn đến loét bao tử như viêm ruột... Sau cùng, stress là nguyên nhân chính của trầm cảm (mental depression) mà 60% dân Mỹ mắc phải, có thể dẫn đến bạo hành trong gia đình xã hội, cướp bóc giết người... Khó khăn kinh tế và thiếu ánh sáng mặt trời sẽ gây SAD (seasonal affective disorder) có thể gây stress ở Bắc Mỹ.
HN: Anh cho biết một số phương pháp điều trị?
VVD: Bệnh kinh niên, nên cần lâu dài và kiên nhẫn. Tốt nhất là thể dục vì nó làm tăng chất endorphin trong não, chống viêm, giảm đau, làm tinh thần khoan khoái. Lý do: khi bị stress, có thể chống lại bằng cách tiết ra các nội tiết như cortisol, adrénaline (thuyết của Cannon), nhưng trong thế giới ngày nay, phản ứng này bị dồn nén, gây ra bệnh. Tập thể dục sẽ giải thoát cho phản ứng này mà còn làm cho mạch máu giãn nở, hạ huyết áp... Nó làm giảm mức cortisol và adrénaline trong máu, tránh được suy nhược thần kinh. Đi bộ hay chạy là tốt nhất, ngày từ 20 đến 45 phút, nhiều hơn càng tốt, nhưng cũng tùy sức. Thứ hai là vệ sinh giấc ngủ. Giấc ngủ lấy lại sức tiêu hao ban ngày. Thứ ba là tĩnh tâm (méditation) khiến giảm stress, hạ huyết áp, nhịp thở, nhịp tim chậm lại, giảm các nội tiết gây stress. Tập Yoga của Ấn Độ rất hiệu quả nhưng phải kiên trì, trong đó thở sâu là rất tốt.
HN: Thở sâu cũng là điểm mấu chốt của phương pháp dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện. Khi còn sống, anh có lần bảo tôi: “Tất cả những gì tôi làm, còn lại ích lợi lâu dài nhất hẳn là mấy câu thơ dậy thở sâu như sau:
“Thót bụng thở ra/ Hai vai bất động/ Chân tay thả lỏng/ Êm nhẹ sâu đều/ Tập trung theo dõi/Luồng ra luồng vào/ Bình thường qua mũi/Lúc gấp qua mồm/ Đứng ngồi hay nằm/Nơi nào cũng được/Lúc nào cũng hay.”
VVD: Quả là hay! Còn 2 phương pháp trị stress nữa đang thử nghiệm: Trị bằng các loại hương thơm ảnh hưởng tốt đến thần kinh (aromatherapy), phương pháp nhận thức trị liệu (cognitive therapy): Nhận định khách quan nguyên nhân stress để tự thay đổi nhận thức...
Hữu Ngọc