Nói chuyện thơ và rượu

16-02-2018 07:02 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Mỗi độ Xuân về, men Xuân mang lại cho thơ không ít cảm xúc phong phú. Trong mọi nền văn hóa, rượu đồng hành với thơ, có khi lại là nguồn thi hứng, không phải chỉ vào tiết Xuân...

Lý Bạch.

Lý Bạch.

Mỗi độ Xuân về, men Xuân mang lại cho thơ không ít cảm xúc phong phú. Trong mọi nền văn hóa, rượu đồng hành với thơ, có khi lại là nguồn thi hứng, không phải chỉ vào tiết Xuân...

Hồn Xuân khác nhau tùy theo từng nền văn hóa. Ở ta và các nước Đông Á, rượu được coi là đồ cúng thiêng liêng. Uống đôi ba chén để tiêu sầu. Rượu còn là phương tiện để giải thoát “phận người” đạt tới cái lâng lâng, tâm nhập vào vũ trụ, tan biến vào hư vô của Phật, Lão. Nói đến thơ và rượu, tôi chợt nghĩ đến một xứ sở cấm rượu rất nghiệt ngã mà lại tôn sùng một nhà thơ ca tụng rượu.

Vị chúa thơ rượu nổi danh Đông Tây là Omar Khayyam (thế kỷ 11-12). Có điều lạ là vị giáo sĩ thần rượu này lại là người nước Ba Tư cấm rượu vì dân theo đạo Hồi. Tôi có dịp đi Iran (tên mới của Ba Tư), thấy các buổi tiệc tùng đều không có rượu. Người ta kể lại là Khayyam thường ngồi trên sân thượng uống rượu và đàm đạo với bạn bè. Có làn gió mạnh làm rơi vỡ vò rượu. Ông ngẫu hứng làm bài thơ:

Hỡi Thượng đế, Người đã đập vỡ vò rượu của con

Đã đóng cửa niềm vui của con, Thượng đế hỡi!

Thế là con uống mà Người lại say

Chao ơi! Người có say chăng khi mồm con đầy đất?

Thơ Khayyam qua rượu, thể hiện một triết lý hưởng lạc và bi quan về số phận con người, ý nghĩa vũ trụ, nhiều khi đi ngược giáo lý chính thống của đạo Hồi.

Tản Đà.

Tản Đà.

Omar còn là một học giả danh tiếng, nắm được tất cả những hiểu biết của thời mình về toán học, nhất là về số học, vật lý học, triết học, thiên văn, pháp lý, lịch sử. Ông được Hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ mời nghiên cứu thiên văn ở một đài thiên văn mới xây dựng và tham gia một tiểu ban cải cách lịch. Omar nổi tiếng thế giới về những bài thơ thể Robajiat (Ro-ba-i-at = mỗi đoạn 4 câu), được dịch sang nhiều thứ tiếng.

Khác với người Iran cấm được biết hương vị rượu, người Thụy Điển thường uống nhiều rượu. Có lẽ để chống lại mùa đông giá lạnh ác nghiệt kéo dài và tình trạng cô đơn do đất rộng người thưa, nhất là ở miền Bắc, nhà ở cách nhau có khi hàng mấy trăm thước. Không lạ gì nhà thơ dân gian của Thụy Điển lại là anh chàng nát rượu Bellman. Ông không phải là nhà thơ vĩ đại của dân tộc nhưng khi tôi ở Thụy Điển, nói chuyện với ai về thơ, thì thấy mọi người đều trìu mến Bellman. Bellman sống ở thế kỷ 18, người ta thường ví ông với nhà thơ Pháp thời Trung cổ là Villon.

Hai nhà thơ chỉ giống nhau ở rượu chè lang bạt, nhưng tâm tính và rung cảm khác nhau. Villon đắm mình trong tội ác của giới trộm cướp, để rồi hối hận, sám hối trước Chúa, luyến tiếc cái trong sáng đã mất. Bellman là tiểu công chức vui đời, say sưa rượu chè và ca hát nhảy múa, không hối tiếc cuộc đời ở quán rượu. Ông kết bạn với thợ thủ công, chủ quán rượu, những anh nát rượu cuồng nhạc, những ả giang hồ. Nhân vật trung tâm của tác phẩm nổi tiếng của ông (Thư văn vần của Fredman) là anh thợ đồng hồ Fredman, bệnh hoạn, chết do nghiện rượu. Bellman đùa giỡn viết những thư văn vần kiểu Thư tông đồ (Epistle) phong cho Fredman làm thần rượu, y như thần rượu La Mã-Hy Lạp Bacchus (Bắcquýt). Rượu là chất men những bài ca của Bellman. Rượu đây không có nghĩa là hành lạc, chỉ khoảnh khắc cho khuây nỗi chán chường như trong văn học cổ La-Hy. Nó cũng không gợi lên cái say, các nhà thơ Ba Tư cảm thấy thú vui trong cay đắng hay do băn khoăn siêu hình. Rượu của Bellman bắt nguồn từ thần Rượu La-Hy nhập vào cuộc đời với vui buồn trần thế. Đọc thơ Bellman đừng quên đó là bài ca kèm nhạc, như ngọc phải lắp vào nhẫn mới thấy hết giá trị.

Ở phương Tây, thơ chuốc rượu và ca tụng rượu xuất phát từ lễ hội thờ Thần Rượu cổ Hy Lạp là Dionysos, Thần Rượu cổ La Mã là Bacchus... có những đám cưới đeo mặt nạ, là nguồn gốc thể loại bi kịch và hài kịch cổ Hy Lạp.

Paul Verlaine.

Paul Verlaine.

Trong thơ Pháp, nổi danh về thơ rượu, ngoài Villon phải kể đến Verlaine (Vec-le-nơ) và Rimbaud (Ranh-bô), “hai chàng thi sĩ choáng hơi men” (thế kỷ 19). Tập thơ của Appolinaire, với cái tên ẩn dụ đầy ý nghĩa được coi là một kiệt tác, Kinh thánh của cả nền thơ hiện đại Pháp và châu Âu. Mặc dù cha người Ý, mẹ người Ba Lan, ông đã thể hiện được truyền thống thi ca Pháp (từ ngôn ngữ kiểu cách của Ronsard đến cái khỏe khoắn và hồn nhiên, âu yếm của dân ca trong thơ Villon), đồng thời kết hợp được những khuynh hướng tiền phong (hướng thơ tượng trưng vào những con đường mới, báo hiệu thơ siêu thực, ủng hộ trào lưu lập thể).

Do những điều kiện địa lý và lịch sử đặc biệt, Đường thi là một sự kiện văn hóa đặc biệt trong thi ca thế giới. Thơ Lý Bạch đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Ông là ngôi sao “rượu và thơ”. Ông rất thích rượu, nhưng không hề bị chê trách là bê tha. Trái lại, trong cuộc đời riêng, đối với gia đình, bè bạn, nhân dân và bản thân, ông luôn tỏ ra chân thành, nhân hậu và bình dị. Rượu giúp ông thể hiện bản sắc thơ ông, mà đời sau đánh giá là “phiêu dạt, hào phóng” (khoáng đạt, thanh thoát tự nhiên), vươn tới cái cao xa. Bài Thơ trước khi chuốc rượu của ông nổi tiếng: Nước sông Hoàng Hà chảy ra biển mất hút, tóc con người thoắt từ đen thành trắng, vậy hãy uống đi, mong say, không mong tỉnh. Hãy bán ngựa và áo quý lấy tiền mua rượu ngon để cùng nhau tiêu tan “vạn cổ sầu” của kiếp người.

Arthur Rimbaud.

Arthur Rimbaud.

Ở ta, Tản Đà cũng có cái “ngông” của Lý Bạch. Ông mượn thơ và rượu để nói lên cái u uất, khát vọng và tình người của mình:

Trời đất sinh ra rượu với thơ

Không thơ không rượu sống như thừa

Công danh hai chữ mùi men nhạt

Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ

Mạch nước sông Đà tuôn róc rách

Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ

Còn thơ còn rượu còn xuân mãi

Còn mãi xuân còn rượu với thơ.

(Ngày xuân thơ rượu)

Còn thơ còn rượu là để:

Đất say đất cũng lăn quay

Trời say trời cũng đỏ gay ai cười!

Cuộc lợi danh như chiêm bao, vậy thì:

Thương ai cho bận lòng đây

Cho vơi hũ rượu cho đầy túi thơ

Cảnh đời gió gió mưa mưa

Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn

Rượu say thơ lại khơi nguồn

Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình

Rượu thơ mình lại với mình

Khi say quên cả cái hình phù du.

Bầu rượu túi thơ, lãng du giang hồ là điển hình cho văn nhân thời trước, muốn tìm lối thoát cho cái tôi bị Khổng giáo và xã hội đè nén.

Trong Truyện Kiều, có những câu thơ nói đến rượu cũng cảm xúc thơ như:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ

Mảng vui rượu sớm cờ trưa.


Nhà văn hóa Hữu Ngọc
Ý kiến của bạn