Vỏ quýt trong Đông y gọi là trần bì, khi dùng làm thuốc thì tốt nhất là dùng ở dạng khô cũ, càng để lâu càng tốt. Trần bì tính ấm, có tác dụng kiện vị (khỏe dạ dày), long đờm, trị ho, trị phong, lợi tiểu, chữa ợ hơi, đau thượng vị. Y học hiện đại đã chứng minh trong vỏ quýt có tinh dầu thơm gluccoxit orange, aldehit lemon, axít béo..., có tác dụng hưng phấn tim, ức chế vận động của dạ dày, ruột và tử cung... Glucoxit orange có tác dụng giống vitamin P, làm giảm độ giòn của mao mạch, phòng xuất huyết. Vỏ quýt còn là vị thuốc tốt điều trị cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, đặc biệt là có công hiệu đối với các chứng bệnh tỳ vị khí trệ, trướng bụng, rối loạn tiêu hóa, kém ăn, buồn nôn, ho nhiều đờm, khó chịu trong lồng ngực...
Vỏ quả chứa tinh dầu thành phần chủ yếu là limonen 91% và các terpen, caren linalool, anthranilat methyl lượng nhỏ hơn.
Quả chứa 87,8% nước, 0,9% protein, 20,6 hydrat carbon, 0,3 chất béo (cao chiết bằng erther), 0,4% chất vô cơ gồm: Ca 0,05 mg%; P 0,02 mg%, Fe 0,01%, caroten 350 UI, vitamin B1 40 UI % và vitamin C 68 mg%, phenyl propanoid glucoisid, terpenoid glucosid, limonoid glucosid và adnosin, trong đó chất citrusin A có tác dụng hạ áp.
Nhiều công dụng
Múi quýt có các thành phần dinh dưỡng không thể thiếu được đối với sức khỏe, bao gồm đường, protein, lipid, vitamin, axít hữu cơ, chất khoáng... Người bị cao huyết áp, bệnh mạch vành, đau dạ dày, suy dinh dưỡng, cơ thể suy nhược sau khi ốm... ăn quýt rất có lợi.
Xơ quýt vị đắng, tính bình, có vitamin P giúp phòng chữa cao huyết áp, rất có ích đối với người cao tuổi. Nó cũng có tác dụng điều hòa khí, tan đờm, thông lạc, thông kinh, thường dùng trị các chứng khí trệ kinh lạc, ho tức ngực, ho ra máu...
Hạt quýt vị đắng, tính bình, có công hiệu điều hòa khí, giảm đau, tan u cục, thường dùng chữa sa nang, sưng đau tinh hoàn, đau lưng, viêm tuyến sữa, ung thư vú giai đoạn đầu...
Lá quýt vị đắng, tính bình, có tác dụng trợ gan, hành khí, tiêu thũng, tan u cục, dùng chữa các chứng đau mạng sườn, sa nang, đau vú, u cục ở vú.
Vỏ quýt xanh tính ấm, vị đắng, cay, có tác dụng trợ can, phá khí, tan u cục, tiêu tích trệ, dùng chữa các chứng đau chướng mạng sườn, sa nang, cương vú, u cục vú, đau dạ dày, ăn khó tiêu, sốt rét lâu ngày thành báng bụng.
Các bài thuốc chữa bệnh bằng quýt
Chữa cảm mạo: vỏ quýt tươi 30g, phòng phong 15g, đổ 3 cốc nước, sắc lấy 2 cốc, hòa đường trắng uống lúc nóng 1 cốc, sau nửa giờ hâm nóng uống tiếp 1 cốc còn lại.
Chữa cảm cúm, nhức đầu: lá quýt và những loại lá thơm khác như: sả, cúc tần, đại bi, hương nhu, lá bưởi, lá chanh..., đun nước uống và xông cho ra mồ hôi.
Chữa phong thấp, đau lưng, đau mình: rễ quýt 16g, thổ phục linh 12g, ngưu tất 12g, thiên niên kiện 8g. Tất cả thái nhỏ, sắc với nước hoặc ngâm rượu uống. Cũng có thể nấu thành cao rồi pha rượu dùng.
Chữa ho do phong nhiệt: vỏ rễ quýt 20g, vỏ rễ dâu 10g, rễ hoặc lá cam thảo nam 10g (hoặc cam thảo bắc 5g). Ba thứ thái mỏng, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, thêm đường, chia thành 2 - 3 phần uống trong ngày.
Chữa chứng ho nhiều đờm: quýt xanh 8 - 16 quả, trộn với 1 thìa nhỏ đường kính hoặc mật ong, một chút muối ăn và 5g bồ hóng (đốt bằng củi). Tất cả đem hấp cơm trong 15 - 20 phút, lấy ra nghiền nát, trộn đều, chia thành 2 - 3 phần uống trong ngày.
Chữa kiết lỵ: vỏ thân quýt 20g, vỏ quả lựu 20g, vỏ quả chuối hột 20g, rễ tầm xuân 2g, búp ổi 10g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống.
Chữa đau bụng, lưng, gối đau nhức: rễ quýt 15 - 30g, sắc nước uống.
Chữa sâu răng: đào rễ quýt, rửa sạch, thêm chút muối vào nhai và ngậm. Một lát răng sẽ hết đau.
Chữa sưng tấy, ứ huyết: lá quýt 40g, chia 2 phần, một phần đem phơi khô, sao vàng, sắc uống, một phần để tươi, giã nát, đắp lên chỗ bị thương. Làm liên tục trong 3 - 4 ngày.
Chữa mụn rò có mủ lâu ngày: lá quýt 20g, lá chanh 20g, tinh tre 10g, tất cả phơi khô, tán bột, rây mịn, rắc lên vết thương.
Chữa đinh râu: dùng rễ quýt và bã rượu, 2 thứ bằng nhau, giã nhỏ, hơ nóng, đắp lên chỗ đinh râu.
Chữa rắn cắn: lá quýt một nắm, rửa sạch, giã nhỏ, thêm ít muối và một chén nước đun sôi để nguội, chắt lấy nước uống và dùng bã đắp vào vết thương.
Chữa nôn mửa: vỏ quýt 10g, lá tỳ bà 15g, bọc vải, sắc nước uống.
Viêm tuyến sữa: hạt quýt tươi 30g, cho ít rượu, rang khô, đổ nước sắc uống.
Ho nhiều đờm: cát hồng (một loại vỏ quýt chế) 10g, bột xuyên bối 3g, lá tỳ bà chế 15g, sắc uống.
Sa nang, sưng tinh hoàn: hạt quýt, tiểu hồi hương lượng bằng nhau, rang vàng, tán bột, mỗi ngày uống 3 - 6g với rượu ấm.
Đau lạnh bụng: trần bì 6g, ô dược 3g, gừng 3g, sắc uống.
Kém ăn: trần bì 6g, tiêu tam tiên 6g, kê nội kim (màng mề gà) 6g, sắc uống.
Đau chướng mạn sườn: xơ quýt (cát lạc) 10g, vỏ quýt xanh 10g, hương phụ 10g, sắc uống.