Một trong những quan tâm hàng đầu hiện nay là sự khác biệt lớn về tình hình dinh dưỡng giữa các vùng, miền, nhất là giữa thành thị, vùng đồng bằng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Các tỷ lệ thiếu dinh dưỡng của trẻ em ở vùng miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường cao hơn gấp 1,5 – 2 lần so với vùng đồng bằng. Sự chênh lệch vùng miền này cần phải thu hẹp để đảm bảo Việt Nam có thể đạt được các mục tiêu quốc gia về dinh dưỡng và Mục tiêu phát triển bền vững mà Chính phủ cam kết đến năm 2030.
Tình trạng dinh dưỡng, tỷ lệ SDD cao ở trẻ em vùng nghèo, khó khăn, miền núi, và đồng bào DTTS sẽ gây hậu quả lâu dài đến chất lượng nguồn nhân lực, làm chậm quá trình giảm nghèo, phát triển kinh tế ở một số vùng khó khăn. Do đó, cần phải đưa mục tiêu/chỉ tiêu và nội dung hành động cụ thể về dinh dưỡng trong các chương trình dành cho 3 đối tượng ưu tiên của Đảng và Chính phủ hiện nay là người nghèo/cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và người nông dân; và điều này mới có thể rút ngắn khoảng cách về tỷ lệ suy dinh dưỡng và tầm vóc, trí lực giữa trẻ em thành thị và nông thôn, miền núi và vùng khó khăn, và không để ai bị bỏ lại phía sau.

Tư vấn dinh dưỡng cho bà mẹ nuôi con nhỏ tại trạm Y tế xã Châu Thắng, huyện Quỳ Châu.
Theo TS.BS Huỳnh Nam Phương - Trưởng phòng Quản lý Khoa học, Điều phối viên Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững và Dân tộc thiếu số, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, công tác hỗ trợ cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm suy dinh dưỡng đối với trẻ em dưới 16 tuổi giai đoạn 2026-2030 cần sự có sự vào cuộc đồng bộ. Trong đó, cấp ủy Đảng và chính quyền ở nhiều địa phương chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề dinh dưỡng đối với sức khỏe và phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là dinh dưỡng bà mẹ và trẻ nhỏ, do vậy chưa quan tâm đầu tư cho công tác dinh dưỡng, chưa coi đây là nhiệm vụ chính trị ưu tiên trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nguồn lực tài chính cho công tác dinh dưỡng nói chung nhất là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu. Ngân sách từ trung ương cho chương trình dinh dưỡng mới được đưa vào 2 chương trình MTQG và cũng chỉ ưu tiên cho một số địa bàn và đối tượng, ngân sách địa phương chưa tăng hoặc tăng không tương xứng do thiếu nguồn lực và những cản trở về mặt cơ chế, hướng dẫn tài chính cho hoạt động dinh dưỡng. Ngân sách chưa bảo đảm để người dân được tiếp nhận các can thiệp dinh dưỡng thiết yếu, chưa có bất cứ can thiệp dinh dưỡng nào được bảo hiểm y tế chi trả. Mặc dù Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững được triển khai từ 2021 đến 2025, tuy nhiên đến 2023 chương trình mới được phân bổ kinh phí hoạt động, các can thiệp dinh dưỡng và các dịch vụ cải thiện dinh dưỡng chưa tác động theo chiều hướng đảm bảo cho sức khỏe trong cộng động, đặc biệt là đối tượng yếu thế là trẻ em, phụ nữ có thai thuộc các hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo.
Công tác phối hợp liên ngành trong hoạt động dinh dưỡng còn nhiều bất cập, chưa lồng ghép và triển khai hiệu quả các nguồn lực đầu tư của các ban, ngành, đoàn thể, nhất là ở địa phương.
Về chính sách cho dinh dưỡng: Các quy định của pháp luật về dinh dưỡng chưa thật sự đồng bộ, cập nhật. Thiếu cơ chế báo cáo, giám sát, đánh giá cũng như thiếu các chính sách bảo đảm sản xuất, tiêu dùng thực phẩm lành mạnh; hạn chế thực phẩm có hại cho sức khỏe. Thiếu chính sách về dinh dưỡng đặc thù cho một số đối tượng dễ bị tổn thương (do tình trạng sinh lý, bệnh lý, nghề nghiệp và tình trạng khẩn cấp do thiên tai, dịch bệnh).
Năng lực của mạng lưới dinh dưỡng các tuyến còn nhiều hạn chế, thiếu kiến thức, kỹ năng và phương tiện cần thiết để tuyên truyền, vận động, hướng dẫn về dinh dưỡng hợp lý. Trong giai đoạn tới, mô hình quản lý 2 cấp cùng với việc sáp nhập tỉnh, xã cũng dẫn đến các khó khăn thách thức mới liên quan đến năng lực triển khai các hoạt động dinh dưỡng tại các địa phương, đặc biệt là công tác nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn cho cấp cơ sở.

Phát tờ rơi tuyên truyền phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em cho đồng bào.
Nhiều can thiệp dinh dưỡng quan trọng quyết định đến phát triển tầm vóc và thể lực của trẻ như chăm sóc dinh dưỡng 1000 ngày đầu đời, dinh dưỡng cho bà mẹ có thai và cho con bú, phòng chống suy dinh dưỡng thấp còi, phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng, bữa ăn bảo đảm dinh dưỡng tại các hộ gia đình, trường học, ngành nghề đặc thù và môi trường độc hại,… chỉ được triển khai trên diện hẹp, chưa tiếp cận đến đông đảo các nhóm đối tượng đích và người dân nói chung. Bên cạnh đó, các can thiệp liên quan đến dinh dưỡng như dịch vụ y tế cơ bản, nước sạch vệ sinh môi trường để tối đa hóa các lợi ích can thiệp về dinh dưỡng vẫn chưa bảo đảm được độ bao phủ cần thiết, đặc biệt là ở khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Người dân ở cả nông thôn và thành thị còn thiếu hiểu biết về dinh dưỡng hợp lý. Công tác truyền thông về dinh dưỡng còn chưa hiệu quả ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số do hạn chế về cách tiếp cận, khác biệt về ngôn ngữ, trình độ văn hóa, phong tục tập quán.
Ngoài ra, tại Việt Nam cũng như tại các nước khác trong khu vực đã và đang chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa, đô thị hóa nhanh chóng, môi trường thực phẩm thay đổi, tác động bất lợi của biến đổi khí hậu, già hóa dân số. Điều này đã góp phần làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo thể hiện ở điều kiện sống và tình trạng dinh dưỡng.